Năm 1883, Pierre Loti, gửi về cho tòa báo Figaro ba bài về cuộc tấn công chiếm cửa biển Thuận An và TP Huế. Năm 1897, Loti xuất bản ba bài báo này, cắt bỏ những cảnh gây sốc nhất dưới tên Ba ngày chiến trận ở xứ An Nam.
Xuyên suốt tác phẩm Ba ngày chiến trận ở xứ An Nam, ông không hề đặt câu hỏi về tính chính nghĩa của cuộc viễn chinh mang màu sắc thực dân này. Và nếu ông có tỏ ra thương hại những người An Nam bị đọa đày, thì đó đơn thuần là tình thương dành cho kẻ yếu thế. Nhưng không, dưới mắt chính quyền lúc đó, việc làm của ông Loti không mang tính chính trị đối lập. Hành động đó chỉ là lầm lỗi của một bộ óc thực tế, trong quá trình tìm kiếm sự chân thực của những sự việc, nơi chốn, thời gian, là kết quả của những trăn trở về sự thật.
Ông đã tự giới hạn mình trong những sự việc đã chứng kiến. Hoàn toàn không bình đến phạm trù đạo đức, và kiên định một thái độ khách quan; đó là hai tính cách đáng ngạc nhiên. Nhưng rắc rối là người ta chờ đợi ông sáng tác ra những câu chuyện hào hiệp, kích động lòng yêu nước, và nhằm mục đích khai hóa, còn phần tàn bạo phải dành cho phía quân thù.
Tại miền Nam nước Pháp, bà Phan Hồng Hạnh đã tình cờ tiếp cận tập sách nhỏ Ba ngày chiến trận ở xứ An Nam, tác giả Pierre Loti. Sau khi đọc, bà rất xúc động và quyết định phải dịch tập sách này ra tiếng Việt với mục đích là để những người đã hy sinh cho đất nước Việt Nam sẽ không bao giờ bị lãng quên. Một cuộc gặp gỡ lạ thường giữa một người phụ nữ Việt Nam với một tác giả Pháp, người đã viết lại những sự kiện tàn bạo này cách đây có đến 140 năm trên vịnh Tourane (nay là thành phố Đà Nẵng, quê hương của dịch giả).
Qua những trang đầu, chúng ta bị chấn động bởi giọng điệu lạnh lùng của ông quan hai trong một hạm đội, ông đã mô tả cách tổ chức cuộc đổ bộ một cách rất quy củ. Thôi thì tính lạnh lùng của một quân nhân chúng ta có thể cho qua được. Nhưng tiếp theo, sự lạnh lùng đó đã làm cho chúng ta ít nhiều khó chịu khi ông Pierre Loti đã tả trận đánh như một vở kịch. Ông viết: “Chúng tôi có được đặc ân ngồi ở vị trí ưu thế để theo dõi tất cả diễn biến của cuộc tấn công…”.
Nhưng, hy vọng lại hé mở khi giọng điệu chính xác, tỉ mỉ, lạnh lùng để mô tả sức tàn phá của cuộc tấn công “Người ta chém giết gần như với một niềm vui,…” đã biến mất một cách nhanh chóng. Vài dòng tiếp theo, may thay, ông đã thêm: “Tất cả những sự kiện đó đã diễn ra rất nhanh, quá nhanh, chỉ trong vòng vài giây, bây giờ từ từ diễn lại với đầy đủ những chi tiết tàn bạo…”.
Thật khó sống khi phải lâm vào tình thế lưỡng nan: một bên là phải hoàn thành “tốt đẹp” một sứ mệnh tàn khốc, và một bên là sự hối tiếc vì đã phải thi hành sứ mệnh đó, điều này lại càng khó chấp nhận hơn. Pierre Loti đã viết: “Họ [những người lính thủy] trở lại là chính mình, tất cả đều lợm giọng không hiểu sao mình có thể tàn bạo đến thế”.
Nhưng luật lệ của chiến tranh là không thương xót, là khốc liệt, mang toàn thú tính, chúng luôn luôn tìm ra được lý lẽ để biện minh cho những gì không thể biện minh được. Ông viết: “khi chỉ mang một nhóm lính nhỏ đến chinh phục một xứ sở bao la, (...) phải tàn sát thật nhiều, gieo rắc thật nhiều hãi hùng, nếu không thì chính mình sẽ bị triệt hạ”. Tiếng rên rỉ không dứt của những người Việt mà tác giả đã ghi lại bằng những tiếng “Han! Han!” đã ám ảnh lương tâm ông, và làm cho chúng ta [người Pháp] không ngừng nghĩ đến nỗi đau mà người Việt lúc bấy giờ đã trải qua.
Lời chứng này đã làm cho người ta cảm nhận rõ rệt về một cuộc chiến tranh đồng thời cũng làm cho người ta cảm thấy day dứt, thế nhưng, trong bối cảnh ngày nay, nó cho phép chúng ta nhìn lại những thương tổn, mất mát của người Việt Nam trong một trận chiến lịch sử, để nó không bị rơi vào quên lãng. Sự so sánh của bất cứ cuộc chiến nào cũng đều giống nhau (…) “thời đại đã đổi thay, ngôn ngữ cũng đổi thay, nhưng sự việc chính nó vẫn là như thế”, Pierre Loti đã nhấn mạnh điều ấy.
Pierre Loti (1850-1923) lên tàu Atalante vào tháng 5 năm 1883 để tham gia chiến dịch cửa Thuận An do Jules Ferry chỉ huy. Trong ba bài viết đã đăng tải trên tờ Le Figaro, ông thuật lại từng giờ từng phút cuộc đánh chiếm Huế. Mô tả sự “say máu” của các thủy thủ Pháp trước người An Nam, các bài báo của ông đã gây ra một vụ bê bối lớn ở Pháp và toàn châu Âu. Sau đó, ông được chính phủ thải hồi khỏi quân đội, khiển trách vì đã không giữ đúng bổn phận trung lập và vì đã mô tả các hành động của binh lính Pháp với sự hung bạo và ác tính.