Bà tôi - Chủ tịch Hội LHPN xã hơn 1/3 thế kỷ
36 năm làm Chủ tịch Hội LHPN xã, 16 năm gắn bó với lực lượng công an, 15 lần bị địch giam cầm tra tấn… Cuộc đời bà tôi như một bài ca, thấm đẫm tinh thần hy sinh, lòng kiên trung và niềm tin sắt son với lý tưởng cách mạng.

Bà Đặng Thị Cá khi sắp nghỉ hưu
Ký ức tuổi thơ về những năm tháng bình yên ở ngôi làng giàu truyền thống cách mạng thuộc vùng quê xứ Đoài là hình ảnh bà nội với ánh mắt hiền hậu, tóc nhuốm bạc luôn được quấn bằng chiếc khăn mỏ quạ cùng bộ áo nâu và hàm răng hạt na đều tăm tắp. Mỗi khi rảnh rỗi, bà thường kéo tôi đến bên, dạy những câu hát đặt lòng: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian…”, “Đoàn quân Việt Nam đi…”, “Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi…”. Những câu hát ấy cứ vậy theo tôi cho đến ngày nay.
Bà mất khi tôi còn đang học tiểu học nên những thông tin về cuộc đời của bà với tôi khi lớn lên không có nhiều. Mãi đến khi ra công tác, trong một lần khai lý lịch gia nhập Đảng, tôi mới biết đến bản “Sơ yếu lý lịch” viết tay có chữ ký của bà từ trước khi tôi sinh ra. Bản lý lịch ghi ngày 22 tháng 11 năm 1970 khi bà đang công tác. Nội dung bản lý lịch cho biết bà tôi tham gia cách mạng từ năm 1943, khi ngoài 20 tuổi. Kể từ khi tham gia cách mạng đến khi nghỉ hưu năm 1981, bà tôi đã có 36 năm liên tục làm Chủ tịch Hội LHPN xã, trong đó có 5 năm kiêm giữ chức phó Trưởng công an xã và 11 năm kiêm giữ chức Trưởng công an xã. Trong khoảng 10 năm tham gia kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) bà tôi đã phải chịu 15 lần bắt tù ở bốt địch. Cứ mỗi lần được thả, bà lại trở về tham gia hoạt động cách mạng.
CHUYỆN ĐỜI NHƯ TIỂU THUYẾT
Bà tôi sinh ra trong gia đình nông dân nghèo có 5 chị em ở thôn 3, xã Hương Ngải (nay là xã Tây Phương, Hà Nội). Từ nhỏ, bà phải cùng các chị đi làm thuê, giúp bố mẹ chăm nuôi hai em trai, trong đó có một người bị câm bẩm sinh. Bà sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1945, bà tham gia hoạt động dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng ở địa phương, được tổ chức phân công làm Trưởng ban phụ nữ cứu quốc xã Hương Ngải.
Trong một lần công tác, bà bị giặc truy đuổi và bị đuối nước khi tìm cách vượt qua khúc sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây. Như định mệnh, hôm đó ông nội tôi đang trên đường đi làm, thấy vậy liền lao xuống dòng nước dữ cứu bà. Là người cùng làng nên họ biết khá rõ về nhau và thế rồi chẳng biết từ khi nào hai người nảy sinh tình cảm. Sau hơn một năm, kể từ ngày diễn ra “cuộc hội ngộ trên sông” đó, bà sinh hạ được một người con gái - chị gái đầu của bố tôi. Nhưng trái ngang ở chỗ, nhà ông lại ở sát nhà của một Trưởng đồn của quân Pháp. Trong lúc cuộc đấu tranh giữa ta và địch đang ở thế giằng co, bà là cán bộ cốt cán tại địa phương, nên tổ chức đã không đồng ý cho ông bà lấy nhau. Để phục vụ yêu cầu công tác, đứa trẻ sau khi sinh mới 3 ngày tuổi được giao trả cho ông tôi, còn bà phải nhận lời làm vợ lẽ một người đàn ông giàu có trong vùng. Ngay ngày đầu về làm dâu, bà bị quân giặc theo dõi và bắt đi do chúng phát hiện thấy những bó truyền đơn trên gác chuồng trâu. Để tránh liên lụy, gia đình nhà chồng của bà đã phải lo lót mất mấy con trâu, đồng thời cam kết không liên quan gì đến bà. Còn bà tôi phải bồi hoàn tiền cưới cho họ.
Do ông bà vẫn quyết tâm đến với nhau và có thể biết ông tôi là người tốt, tích cực tham gia vào việc chung nên cuối cùng tổ chức đã cho phép hai người chính thức trở thành vợ chồng. Hơn 3 năm sau, ông bà tôi có thêm người con thứ hai, đó là bố tôi.

Bà Đặng Thị Cá (hàng trước, thứ 3 từ phải sang) cùng các cán bộ tham gia kháng chiến chống Pháp tại địa phương
TRỌN NIỀM TIN VỚI ĐẢNG
Bà tôi mất khi mới 60 tuổi nhưng ông tôi là người sống thọ (ngoài 90 tuổi ông mới mất) nên tôi có nhiều dịp hỏi chuyện về quãng đời hoạt động của ông bà mình. Có lần tôi hỏi ông về chuyện bà nội bị quy sai. Ông ưu tư nhớ lại: “Buổi đó, ông đang đi làm thì có người cho biết bà bị một nhóm người bắt đi vì hình như họ nói bà là người của Quốc dân đảng. Nghe vậy, ông liền cùng mấy người bạn thân đi tìm. Đến nơi, ông thấy gần chục người tay cầm đòn gánh, dùi đục, đằng đằng sát khí vây quanh bà, còn bà thì hai tay đã bị trói kéo sang hai bên cánh cổng. Lúc này, ông Ba Hòa - một người bạn cùng xóm, nổi tiếng giỏi võ - đã vung gậy lên hét lớn: “Nếu đứa nào động đến bà ấy, tao đánh chết”. Vậy là những người kia lặng lẽ bỏ đi”.
Theo cuốn Lịch sử cách mạng của Đảng bộ xã, đợt cải cách ruộng đất ở Hương Ngải diễn ra từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1955 và đây là thời điểm bản Sơ yếu lý lịch của bà tôi ghi “bị quy sai mất công tác”. Không lâu sau đó, bà được giải oan, được phục chức Chủ tịch Hội phụ nữ, đồng thời từ Phó Công an trở thành Trưởng Công an xã. Theo lời ông tôi kể lại, khi bà tôi được sửa sai, chính vị Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam khi ấy (bà Nguyễn Thị Thập) đã về thăm hỏi, động viên và ở lại nhà chúng tôi một số ngày. Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam còn tặng ông bà tôi một chiếc vỏ chăn và cho bố tôi một bộ… áo váy (có thể khi đó bố tôi còn nhỏ, lại tên Lan nên tưởng là bé gái).
Những năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, quê tôi nổi tiếng với các phong trào “Ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Với vai trò Chủ tịch Hội phụ nữ, Trưởng Công an xã, bà tôi luôn bận rộn với công việc của chính quyền, đoàn thể, nhưng vẫn không hề sao nhãng việc gia đình. Khi cuộc chiến chống Mỹ ở vào giai đoạn ác liệt nhất, bà đã động viên người thân của mình cho con em lên đường nhập ngũ. Cuối năm 1971, bà tôi động viên con trai mình (em bố tôi) lên đường chiến đấu. Thời điểm ấy chú tôi mới 16 tuổi, đang học lớp 9 (hệ 10 năm). Một năm sau ngày nhập ngũ, chú tôi hy sinh ở chiến trường Quảng Trị trước khi Hiệp định Paris được ký kết đúng 1 ngày…
Tháng 12/1982, sau khi được nghỉ hưu một thời gian, bà tôi lặng lẽ ra đi do bệnh lao lực, hậu quả của những năm tháng xông pha hoạt động, bị giam giữ, tù đày. Khi đoàn đưa tang ra gần đến cổng làng, bỗng thấy xuất hiện một chiếc xe U-oát hối hả chạy theo. Đó là xe của đoàn cán bộ Huyện ủy Thạch Thất. Nghe nói, sáng đó trước khi diễn ra cuộc họp ở Huyện ủy, họ biết tin bà tôi tạ thế nên đã cho hoãn họp và tức tốc về xã mong được nhìn mặt lần cuối người đồng chí đã sát cánh hoạt động suốt gần nửa thế kỷ, nhưng không kịp.
Đến nay, hầu hết kỷ vật của bà đã thất tán, gia đình chỉ còn lưu lại được một phần nhỏ, trong đó có Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Kỷ niệm chương kháng chiến, Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng…
Bây giờ tôi đã là một trung niên, một nhà khoa học và cũng đạt được một số thành tích sau những năm tháng công tác. Nhưng suốt nửa thế kỷ qua, trong hành trình học tập, phấn đấu của mình, mỗi khi gặp khó khăn, thử thách, tôi đều nghĩ về quê nhà, người thân và nhất là bà nội tôi một nữ cán bộ địa phương đã hiến trọn đời mình cho cách mạng.