Bài 3: Đồng Tháp Mười là mồ chôn giặc Pháp

Ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tên tướng Leclerc đã từng huênh hoang tuyên bố: 'Sẽ bình định Nam Bộ trong vòng 3 tháng'. Trong kế hoạch 'đánh nhanh, thắng nhanh' của hắn, việc triệt tiêu căn cứ Đồng Tháp Mười đã được đặt lên hàng đầu. Lần đầu tiên, thuật ngữ 'chiến tranh tổng lực' (guerre totale) đã được Bộ tham mưu quân đội viễn chinh Pháp sử dụng trong những trận càn quét vào Đồng Tháp Mười.

Mỗi công dân là một người lính, mỗi làng mạc là một chiến hào

Để đánh bại âm mưu thâm độc của địch, Xứ ủy Nam Bộ đã đề ra khẩu hiệu chiến đấu nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp vĩ đại của cuộc chiến tranh Nhân dân: "Mỗi công dân là một người lính, mỗi làng mạc là một chiến hào".

Ở khắp các địa phương, chính quyền Cách mạng đã huy động các tầng lớp Nhân dân, các cơ quan quân - dân - chính - Đảng, các đoàn thể cứu quốc tiến hành phá đường, đắp ụ, dựng chướng ngại vật, cắm cọc trên sông rạch, đắp hàng loạt cản ở dưới sông - cản đất, cản cây, cản cỏ và lục bình... để ngăn bước tiến của xe cơ giới và tàu chiến địch. Công tác đào kinh, đắp cản, xây dựng xã chiến đấu được triển khai thành phong trào quần chúng sôi nổi. Hệ thống sông rạch nào tàu địch có thể đi lại, Nhân dân không tiếc đem công của ra để đắp cản.

Lính đặc công nước ở chiến trường Hồng Ngự

Lính đặc công nước ở chiến trường Hồng Ngự

Cản Dương Văn Dương chạy dài theo kinh đến 500 mét, địch không thể nào phá nổi. Ngoài cây mọc, đất đá, Nhân dân và lực lượng du kích địa phương còn chở cả lục bình từ nơi khác về thả dày đặc hàng mấy cây số bên trên cản.

Ở Mỹ Tho, người dân đã đắp hàng loạt cản trên kinh Bùi, kinh Ba, kinh Mười Hai, kinh Nguyễn Văn Tiếp, kinh Bằng Lăng... Giữa hai cản đất, còn có cản cây, cỏ và lục bình.

Tại Hồng Ngự, Nhân dân tự nguyện đóng góp hàng trăm ghe xuồng chở đầy đất nhấn chìm xuống sông Sở Hạ để ngăn tàu giặc. Đồng bào còn hiến hàng nghìn mét khối đất đá để đắp cản cao hơn mặt sông đến 7 mét.

Để gia tăng thêm yếu tố "địa lợi" cho chiến trường và nhằm góp phần vào việc mở rộng hệ thống thủy nông, tăng cường mạng lưới giao thông, cùng với việc đắp cản, công tác đào kinh đã trở thành phong trào hành động Cách mạng sôi nổi của quần chúng trong kháng chiến. Bà con nông dân đã kiên trì lao động đào hàng chục con kênh "kháng chiến". Có những con kinh dài 20 - 30km, như kênh từ Gãy Cờ Đen lên Cái Rưng, kênh từ cống Biện Ninh qua Bắc Chan, kinh Hai Hạt từ Bằng Lăng xuống Bà Nhựa... Xã nào, ấp nào cũng có con kinh mang tên kháng chiến, hoặc một sự kiện lịch sử...

Vùng Thanh Mỹ có kinh Bờ Bao 307, kinh Kháng chiến, xã Mỹ Quý có kinh Đập Đá, kinh Bảy Bồng, kinh Đường Thét...

Phát động phong trào "vườn không, nhà trống", áp dụng chiến thuật du kích để đánh giặc

Chấp hành Chỉ thị kháng chiến của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 25/11/1945 và Quyết định của cuộc Hội nghị quân sự họp ở ven sông Vàm Cỏ Đông, Đức Hòa, Long An (nay thuộc tỉnh Tây Ninh) ngày 10/12/1945, sau khi tiếng súng của cuộc kháng chiến chống Pháp toàn chiến trường Nam Bộ bùng nổ, các địa phương trong vùng Đồng Tháp Mười đã nhanh chóng tổ chức thực hiện những việc sau đây:

- Triệt để phát động phong trào "vườn không, nhà trống" và ra sức áp dụng chiến thuật du kích để đánh giặc. Tại Hồng Ngự, xã nào cũng xây dựng được một tiểu đội du kích tập trung. Ở Mộc Hóa, các đơn vị vũ trang đã nhanh chóng được xây dựng, có nơi thành lập cả đội "Cảm tử quân". Hệ thống trinh sát và việc thông tin, báo tin được tổ chức tốt. Chỉ ở một đoạn trên sông Vàm Cỏ, dân quân đã tổ chức tới 17 trạm gác, hễ thấy tàu địch xuất hiện là lập tức đánh mõ báo động cho cơ quan và Nhân dân kịp thời sơ tán, cho bộ đội và du kích sẵn sàng chiến đấu.

Máy bay chiến đấu của quân Pháp bị ta bắn rơi ở Đồng Tháp Mười, năm 1948

Máy bay chiến đấu của quân Pháp bị ta bắn rơi ở Đồng Tháp Mười, năm 1948

- Triệt phá bộ máy chính quyền tay sai của địch ở cơ sở. Nhiều nơi, các đội du kích tập trung của huyện đã truy lùng bắt những tên ác ôn, đọc bản án xét xử tại chỗ để răn đe. Phong trào trừ gian diệt tề, trừng trị bọn gián điệp được phát triển mạnh. Tại Mộc Hóa, tất cả 48 tên tề xã trong quận đã viết tờ cam kết trước cơ quan chính quyền Cách mạng không tiếp tục làm tay sai cho địch.

Sự kết hợp tác chiến của các đơn vị vũ trang và lực lượng bán vũ trang ngày càng được tổ chức thực hiện tốt. Đến đầu năm 1947, ở tỉnh Tân An, cơ quan huyện đội đã được chính thức thành lập. Các đội du kích tập trung của huyện được quan tâm tăng cường và củng cố để phục vụ cho tác chiến. Tại tỉnh Mỹ Tho, các lực lượng vũ trang vừa tiến công bứt rút đồn bót nằm trong nội địa Đồng Tháp Mười, vừa bung ra vùng ven dọc theo các trục lộ giao thông để tấn công tiêu diệt địch. Do kết quả việc phối hợp của các du kích huyện, xã và ấp để tiến hành canh gác và bao vây đồn địch, nên đã hạn chế được sự ruồng bố của chúng. Hoạt động mạnh của lực lượng du kích còn tạo ra địa bàn dừng chân thuận lợi của các đơn vị chủ lực.

Trong 15 tháng chiến đấu, từ ngày 23/9/1945 đến ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, quân dân chiến khu Đồng Tháp Mười đã cùng Nhân dân Nam Bộ tiêu diệt được 1.330 tên giặc, bắn rơi 2 máy bay, diệt 40 xe, 6 đồn, đốt phá Đài phát thanh Sài Gòn, thiêu hủy 4.000 tấn đạn, 1.500 tấn cao su.

Tháng 10/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã gửi thư cho Xứ ủy Nam Bộ, viết: "Cuộc kháng chiến Nam Bộ thật có tính chất Nhân dân, trong kháng chiến tự dân đứng dậy xông lên để tự vệ bằng mọi cách với mọi sáng kiến, mọi khả năng... Cuộc kháng chiến Nam Bộ mạnh chính là ở tự động, không ỷ lại, tự lực cánh sinh".

Nhân dân Đồng Tháp Mười đắp cản để ngăn tàu chiến của giặc

Nhân dân Đồng Tháp Mười đắp cản để ngăn tàu chiến của giặc

Trong năm 1949, trước khi Xứ ủy Nam Bộ di chuyển bản doanh xuống chiến khu U Minh ở miền Tây, trên chiến trường Đồng Tháp Mười còn diễn ra hai trận đánh lớn.Đó là trận đánh diễn ra ngày 21/4/1949, trên sông Sở Thượng (thuộc huyện Hồng Ngự), ta dùng thủy lôi đánh chìm tàu vớt mìn D27, đánh bị thương nặng tàu V72, diệt nhiều lính Âu Phi, bắt sống 23 lính người Marốc, thu 1 súng cối 82 ly, hai pháo 20 ly, 3 đại liên 13,7 ly và 90 súng các loại. Ngày 20/5/1949, hai đại đội 1028 - 1030 của Trung đoàn 115 phối hợp với du kích xã Phong Mỹ đánh thủy lôi ở Vàm Cái Lách (huyện Thanh Bình), nhận chìm tàu vớt mìn D28, đánh tan rã 1 tiểu đoàn Âu Phi, bắt sống 30 tên, thu 1 đại bác và 200 súng các loại. Hai trận này góp phần tạo hành lang thuận lợi từ Khu 8 qua sông Tiền liên lạc xuống miền Tây.

Tháng 6/1949, địch mở cuộc càn lớn vào Đồng Tháp Mười với 4.000 quân, đa số là Âu Phi, có xe lội nước, tàu chiến, máy bay và lính dù yểm trợ do đại tá Paul Connier chỉ huy, kéo dài từ ngày 02 đến 08/6. Tiểu đoàn 404 bảo vệ căn cứ địa của Nam Bộ, Tiểu đoàn chủ lực 307 của Khu 8, Tiểu đoàn 309 của Mỹ Tho phối hợp chặt chẽ với dân quân, du kích các xã căn cứ đã đánh trả quyết liệt những trận tiến công của địch. Trong trận chống càn này, quân ta tiêu diệt 400 tên địch, 6 xe lội nước nhưng cũng bị tổn thất. Kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt, Ủy viên xã hội của Ủy ban Kháng chiến - Hành chính Nam Bộ bị địch bắt tại Cái Bèo. Đồng chí Đỗ Huy Rứa - Tiểu đoàn trưởng 307, đồng chí Hoàng Thái Khuyên - Chính trị viên Tiểu đoàn 309 và 70 đồng chí đã hy sinh. Hơn 200 đồng bào bị giết, 700 nhà bị giặc đốt.

(Còn tiếp)

TRẦN HỮU PHƯỚC

Nguồn CA TP.HCM: http://congan.com.vn/tin-chinh/bai-2-dong-thap-muoi-la-mo-chon-giac-phap_183268.html