Bài 3: Kỳ vọng mới từ Dự án 6
Sau 5 năm triển khai Dự án 6 thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, diện mạo văn hóa cộng đồng các dân tộc đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, chặng đường mới giai đoạn 2026–2030 đặt ra những yêu cầu cấp thiết hơn về cơ chế, nguồn lực và phương thức thực thi để di sản văn hóa các dân tộc không chỉ sống sót, mà sống động, sinh lợi và lan tỏa bền vững.
Khơi dậy bản sắc văn hóa, gieo mầm sinh kế, kiến tạo tương lai Bài 2: Khi di sản hóa thành sinh kế bền vữngKhơi dậy bản sắc văn hóa, gieo mầm sinh kế, kiến tạo tương lai: Bài 1: Dấu ấn 5 năm thực hiện Dự án 6

Giai đoạn 2026–2030, Dự án 6 đặt ra những yêu cầu cấp thiết hơn về cơ chế, nguồn lực và phương thức thực thi để di sản văn hóa các dân tộc không chỉ sống sót, mà sống động, sinh lợi và lan tỏa bền vững
Từ con số đến chuyển động thực tiễn
Một trong những chỉ tiêu cụ thể của Nghị quyết 88/2019/QH14 là “80% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng, 50% thôn có đội văn nghệ truyền thống hoạt động thường xuyên, có chất lượng”. Tính đến cuối giai đoạn I, con số thực tế đã vượt mức kỳ vọng: 93,8% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng; 66,1% thôn có đội văn hóa, văn nghệ truyền thống hoạt động đều đặn.

Nghệ nhân Ưu tú Quàng Văn Cá hướng dẫn nghề dệt truyền thống dân tộc Khơ Mú
Được tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú của Chủ tịch nước vào năm 2020, ông Quàng Văn Cá, Bí thư chi bộ, người có uy tín ở bản Tọ Cuông, xã Ẳng Tở, huyện Mưởng Ảng(Điện Biên) là người có nhiều đóng góp trong việc bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa phi vật thể của đồng bào Khơ Mú.
Ông cho rằng nhờ có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc đầu tư thực hiện Dự án 6, nhiều giá trị văn hóa vật thể , phi vật thể các dân tộc, trong đó có dân tộc Khơ Mú của chúng tôi được bảo tồn, gìn giữ và tiếp tục được du khách trong nước và quốc tế biết đến.
Mong muốn lớn nhất của Nghệ nhân Ưu tú Quàng Văn Cá là tiếp tục sưu tầm, biên soạn chắt lọc những nét tinh túy nhất của văn hóa phi vật thể dân tộc Khơ Mú để từ đó gìn giữ cái “hồn” người Khơ Mú ngày càng phát triển, tỏa sáng trong kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Không chỉ về số lượng, chất lượng của các mô hình văn hóa cộng đồng cũng từng bước được nâng cao. Từ 320 lớp tập huấn, truyền dạy văn hóa phi vật thể đến 200 dự án sưu tầm, phục dựng các di sản văn hóa có nguy cơ mai một; từ bảo tồn 120 lễ hội, 80 làng bản truyền thống đến việc đầu tư xây dựng 3.590 thiết chế văn hóa, thể thao tại thôn bản, tất cả đều góp phần tạo nên bức tranh văn hóa sống động ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa.
Ở một số tỉnh như Điện Biên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Sơn La, Thanh Hóa…, nhiều nghệ dân gian đã trở thành “giáo viên” tại chỗ, truyền dạy những điệu hát, làn điệu cổ, nghề thủ công truyền thống trong các lớp cộng đồng. Đặc biệt, mô hình câu lạc bộ văn hóa dân gian, đội văn nghệ thôn bản đã trở thành “xương sống” gìn giữ ký ức văn hóa.
Tuy vậy, đằng sau những thành tích đáng ghi nhận, quá trình thực hiện Dự án 6 vẫn còn không ít lực cản. Trước hết là độ “trễ” trong phân bổ vốn và ban hành văn bản hướng dẫn. Dù Chương trình bắt đầu từ 2021, nhưng đến giữa năm 2022, nguồn kinh phí triển khai mới chính thức được giao. Điều này khiến các địa phương bị động, khó chủ động xây dựng kế hoạch và phân bổ nguồn lực đúng tiến độ.
Tiến độ giải ngân cũng là một điểm nghẽn đáng kể, đặc biệt với các nhiệm vụ sử dụng nguồn vốn sự nghiệp. Nhiều hạng mục chi chưa có hướng dẫn chi tiết, trong khi định mức đầu tư lại không phù hợp thực tiễn, nhất là với các thiết bị văn hóa truyền thống, đạo cụ dân gian hay nhạc cụ dân tộc. Một số địa phương lúng túng trong thống kê, báo cáo, dẫn đến số liệu thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả tổng thể.

Dự án 6 hướng tới tạo nên bức tranh văn hóa sống động ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa
Ngoài ra, có hiện tượng “chọn việc dễ, bỏ việc khó”, khi nhiều địa phương ưu tiên các nhiệm vụ mang tính hình thức, đơn giản, thay vì tập trung vào những hoạt động trọng điểm như nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn giá trị văn hóa có nguy cơ mai một. Việc thiếu hướng dẫn cụ thể cho hỗ trợ nghệ nhân dân gian (ngoài đối tượng Nghệ nhân Ưu tú, Nghệ nhân Nhân dân) cũng khiến nguồn lực bảo tồn bị thu hẹp.

Dự án 6 cũng xác định hỗ trợ nghệ nhân dân gian trong việc bảo tồn giá trị văn hóa có nguy cơ mai một là nhiệm vụ then chốt trong thời gian tới
Từ thụ hưởng sang đồng sáng tạo: Yêu cầu đặt ra cho giai đoạn mới
Giai đoạn 2026–2030 được xác định là thời kỳ “nâng cấp” toàn diện Dự án 6. Với nhu cầu vốn khoảng 5.327 tỉ đồng, trong đó 4.300 tỉ đồng là vốn đầu tư trung ương, mục tiêu đặt ra là khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa.

Mục tiêu đặt ra trong giai đoạn mới là tiếp tục phát triển du lịch cộng đồng gắn với bản sắc văn hóa

Nghệ nhân ưu tú Đinh Quang Chưởng
Nghệ nhân ưu tú Đinh Quang Chưởng ở bản Tang Lang, xã Đá Đỏ, huyện Phù Yên (Sơn La)cho biết, văn hóa Mường được hình thành, lưu giữ, bảo tồn và phát triển trong quá trình lao động sản xuất, khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ trong cuộc sống. Điều ông tâm đắc nhất là được tham gia các lớp tập huấn truyền dạy văn hóa Mường trên địa bàn thông qua các chương trình của Dự 6 được Sở VHTTDL tỉnh Sơn La tổ chức, để từ đó giúp cho thế hệ trẻ trân trọng, gìn giữ các giá trị văn hóa quý báu của cha ông.
Vì thế, ông rất tích cực tham gia truyền dạy tại các lớp tập huấn hạt nhân văn nghệ do xã, huyện, tỉnh tổ chức nhằm góp phần gìn giữ, truyền thụ và nhen nhóm tình yêu văn hóa Mường cho thế hệ trẻ.
Thay vì tập trung vào thiết chế vật chất đơn lẻ, Dự án 6 giai đoạn tới sẽ triển khai đồng bộ 14 nhiệm vụ lớn, bao gồm bảo tồn làng bản truyền thống, tu bổ di tích quốc gia, phát triển điểm đến du lịch, phục hồi các lễ hội đặc sắc, truyền dạy ngôn ngữ – chữ viết dân tộc, xây dựng mô hình CLB văn hóa, cơ sở dữ liệu số văn hóa dân tộc, và đẩy mạnh quảng bá trong và ngoài nước.
Đáng chú ý, quan điểm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” được xác định là định hướng xuyên suốt. Bộ, ngành trung ương giữ vai trò hướng dẫn, theo dõi, giám sát mục tiêu chung; trong khi địa phương được trao quyền chủ động trong lập kế hoạch, huy động nguồn lực, tổ chức triển khai.
Nếu trước đây, bảo tồn văn hóa thường bị hiểu là “giữ nguyên trạng”, thì hiện nay, khái niệm này cần được định nghĩa lại là bảo tồn để phát triển, bảo tồn trong sự vận động sáng tạo của cộng đồng. Do đó, các mô hình hỗ trợ cần gắn liền với sinh kế người dân, chuyển từ cấp phát sang đồng hành, từ “hỗ trợ nghệ nhân” sang “đồng sáng tạo sản phẩm du lịch”.
Để làm được điều này, chính sách cần mở rộng đối tượng hưởng lợi, bao gồm cả nghệ nhân dân gian không có danh hiệu; đồng thời có chính sách đào tạo thế hệ kế cận, hỗ trợ truyền dạy trong cộng đồng. Các định mức kỹ thuật, chi phí cần cập nhật phù hợp với thực tế địa phương, tránh tình trạng “làm không dám chi, chi không dám quyết toán”.

Quan điểm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” được xác định là định hướng xuyên suốt trong giai đoạn mới của Dự án 6
Việc tăng định mức hỗ trợ cho các điểm đến du lịch văn hóa, làng nghề, lễ hội truyền thống cũng là bước đi cần thiết để “hút” nguồn lực xã hội hóa, thay vì lệ thuộc hoàn toàn vào ngân sách Trung ương. Đồng thời, ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý, lưu trữ, quảng bá di sản sẽ giúp tăng hiệu quả quản lý và lan tỏa giá trị văn hóa rộng rãi trên các nền tảng số.
Dự án 6 là nhịp cầu nối hiện tại với quá khứ, nơi mà những bản làng, tiếng trống chiêng, làn điệu dân ca hay một lễ hội cổ truyền không còn là ký ức, mà là tài sản sống, sinh lợi bền vững cho cộng đồng. Nhưng để làm được điều đó, cần một chiến lược nhất quán, đầu tư bài bản, cơ chế linh hoạt, và trên hết là sự đồng hành từ trái tim với trái tim giữa chính quyền, cộng đồng và nghệ nhân.

Các mô hình hỗ trợ sẽ gắn liền với sinh kế người dân, từ “hỗ trợ nghệ nhân” sang “đồng sáng tạo sản phẩm du lịch”
Kết thúc giai đoạn 2021–2025, Dự án 6 đã bước đầu định hình nền tảng văn hóa cộng đồng các dân tộc thiểu số. Giai đoạn 2026–2030, thách thức lớn nhất không chỉ là vốn, là thể chế, mà là làm sao để di sản không “ngủ quên trong lòng núi”, mà thực sự trở thành nguồn lực phát triển, sinh kế bền vững, và là niềm tự hào của mọi thế hệ trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Nguồn Văn hóa: http://baovanhoa.vn/dan-toc-ton-giao/bai-3-ky-vong-moi-tu-du-an-6-144706.html