Bài 4: Thủ đô kháng chiến huyền thoại giữa bưng biền
Trong ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, dù ở nơi bưng biền xa xôi cách trở, Nhân dân Đồng Tháp Mười đã phối hợp nhịp nhàng với đồng bào Nam Bộ đứng lên đập tan bộ máy chính quyền của bọn thực dân. Với tầm vông vạt nhọn, giáo mác, cuốc xẻng, Nhân dân đã tràn vào các thị trấn cùng với lực lượng Thanh niên tiền phong tiến hành chiếm các dinh quận, biểu dương khí thế cách mạng và chào mừng các Ủy ban Nhân dân lâm thời làm lễ ra mắt đồng bào. Những trung đội Cộng hòa vệ binh và Quốc gia tự vệ cuộc trẻ, tuy chỉ được trang bị bằng vũ khí thô sơ, nhưng sĩ khí chiến đấu rất cao.
Việc xây dựng Đảng, cơ quan chính quyền và các đoàn thể cứu quốc
Lực lượng đảng viên ta tuy thuở ấy còn quá mỏng, nhưng đã tỏa đi khắp các địa phương để xây dựng cơ quan chính quyền Cách mạng và các đoàn thể cứu quốc. Ở cấp xã, thành phần trong Ủy ban Nhân dân chỉ có 5 người: Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên thư ký, Ủy viên tài chánh, Ủy viên quân sự kiêm an ninh. Các đoàn thể cứu quốc - thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi..., các hội Phật giáo, Thiên Chúa giáo yêu nước được quần chúng tự nguyện tham gia đông đảo và hoạt động có hiệu quả.
Ở các xã, phong trào thanh niên tòng quân rất đông. Tại huyện Mộc Hóa, còn tổ chức được đội "cảm tử quân". Chính lực lượng vũ trang này, trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Đồng Tháp Mười đã phát huy tác dụng đắc lực trong việc triệt phá hoàn toàn bộ máy địch ở cơ sở. Chỉ tính riêng huyện Mộc Hóa, tất cả 48 tên tề ở xã đã làm tờ cam kết trước đại diện cơ quan Ủy ban Kháng chiến, Công an và du kích xã, sẽ không tiếp tục làm tay sai cho địch nữa.
Để bảo vệ chính quyền Cách mạng, nhiều đội du kích tập trung của các huyện đã tiến hành lùng bắt và thẳng tay trừng trị bọn Việt gian khét tiếng hung ác, trừ khử bọn do thám và gián điệp.
Trong ngày bầu cử Quốc hội lần đầu tiên của nước ta (06/01/1946), tuy máy bay chiến đấu của địch bắn phá suốt ngày, nhất là từ Gãy Nhà Thờ đến kinh Thiên Hộ, nhưng các tầng lớp Nhân dân vẫn đi bỏ phiếu rất đông.
Sau khi các cơ quan và đơn vị trực thuộc Xứ ủy, Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ đặt bản doanh tại chiến khu Đồng Tháp Mười, từ cuối năm 1946 - 1947 - 1948 - 1949, phong trào Cách mạng ở Khu 8 có bước phát triển vượt bậc. Xã nào cũng thành lập được Chi bộ Đảng và số lượng đảng viên tăng lên gấp bội. Đặc biệt, các đoàn thể cứu quốc cấp Nam Bộ đã có bước phát triển mạnh về tổ chức. Hội nghị đại biểu các chính Đảng, đoàn thể cứu quốc, các tôn giáo, các dân tộc, các nhân sĩ yêu nước đã bầu Ủy ban Việt Minh Nam Bộ và thành lập Hội Liên Việt Nam Bộ. Mặt trận Việt Minh Nam Bộ do đồng chí Hà Huy Giáp làm Chủ nhiệm, Vương Văn Lễ làm Phó Chủ nhiệm, Trần Bạch Đằng làm Tổng thư ký. Hội Liên Việt Nam Bộ do cụ Cao Triều Phát làm Chủ tịch, linh mục Nguyễn Bá Luật, kỹ sư Huỳnh Thiện Lộc làm Phó Chủ tịch, Hà Huy Giáp làm Tổng Thư ký.
Xứ Đoàn Thanh niên cứu quốc Nam Bộ và Đoàn Phụ nữ cứu quốc Nam Bộ cũng đều tiến hành Đại hội hoặc triệu tập Hội nghị đại biểu để thành lập. Xứ đoàn trường Thanh niên cứu quốc là Châu Quốc Tuấn. Đoàn trưởng Đoàn Phụ nữ cứu quốc Nam Bộ là Nguyễn Thị Thập.
Các Hội Phật giáo cứu quốc, Hội Cao Đài cứu quốc 12 phái hiệp nhứt, Hội Công giáo kháng chiến cũng đều được thành lập tại chiến khu Đồng Tháp Mười. Riêng Hội Phật giáo cứu quốc Nam Bộ ra đời vào cuối năm 1946, do Hòa thượng Thích Minh Nguyệt làm Chánh Hội trưởng. Văn phòng đặt tại chùa Ô Môi (xã Mỹ Quý). Hội xuất bản báo Tinh Tấn do Hòa thượng Thích Minh Nguyệt làm Chủ nhiệm, Giáo sư Lê Văn Đông làm Chủ bút. Hội động viên tích cực tín đồ tham gia mọi mặt công tác kháng chiến, từ tòng quân đánh giặc đến tham gia sản xuất.
Hội Cao Đài cứu quốc 12 phái hiệp nhất do cụ Cao Triều Phát làm Chủ tịch, Nguyễn Ngọc Nhựt và Nguyễn Văn Khâm làm Phó Chủ tịch.

Binh công xưởng chế tạo vũ khí của quân ta ở Đồng Tháp Mười, năm 1947 - 1948
Một số giáo phẩm và tín đồ lập Hội Công giáo kháng chiến với hai tổ chức Thanh niên Công giáo và Phụ nữ Công giáo nhằm tập hợp và động viên bà con trong đạo đóng góp nhiều hơn cho kháng chiến.
Ở Đồng Tháp Mười, giáo dân họ đạo Nhơn Hòa Lập lập nhiều thành tích đáng kể, nhiều thanh niên Công giáo hăng hái gia nhập bộ đội và Thanh niên xung phong.
Ở các tỉnh có đông tín đồ Hòa Hảo, Xứ ủy còn chủ trương lập các Ban Hòa Hảo vận để giải thích cho tín đồ hiểu rõ âm mưu chia rẽ dân tộc thâm độc của địch.
Hoạt động tích cực của các đoàn thể cứu quốc Nam Bộ ra đời ở chiến khu Đồng Tháp Mười đã làm chỗ dựa vững chắc cho Đảng, chính quyền và quân đội. Chỉ tính riêng trong trận Mộc Hóa (8/1948), Đoàn Phụ nữ cứu quốc đã tích cực vận động Nhân dân bảo đảm số gạo cho 3.000 bộ đội đủ ăn để đánh giặc trong 7 ngày. Khoảng 500 dân công cũng đã được huy động để phục vụ đắc lực cho trận đánh này.
Cống hiến quan trọng của Đoàn Phụ nữ cứu quốc Nam Bộ trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội, là đã tham gia tích cực vào việc phát động phong trào tăng gia sản xuất lương thực thực phẩm, trồng bông dệt vải, trồng dâu nuôi tằm, vừa tự túc cho gia đình, vừa đáp ứng cho nhu cầu ăn mặc của bộ đội và cán bộ. Đoàn đẩy mạnh việc thành lập các "Hội mẹ chiến sĩ”, "Hội chị chiến sĩ”, tích cực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho bộ đội, động viên thanh niên tòng quân, tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, làm giao liên, tiếp tế, trinh sát; tổ chức các phong trào "hũ gạo kháng chiến", "con gà cứu quốc", "bụi chuối yêu nước", "áo mùa đông binh sĩ”... Đặc biệt, chị em phụ nữ còn tham gia đào một con kinh kháng chiến ở Mộc Hóa nối liền hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, gọi là "kinh Phụ nữ".
Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, trong những năm 1947 - 1948 - 1949, chính quyền Nhân dân đã được thành lập ở 1.000 xã trong tổng số 1.334 xã trên toàn Nam Bộ. Còn lại là những xã ở gần đồn địch, chính quyền của ta phải hoạt động bí mật. Tuy vậy ở những nơi này, địch cũng không lập được hội tề. Ngay ở giữa những thành phố Pháp chiếm đóng, ta vẫn thu được thuế. Với số lượng 270.593 người trong đội ngũ dân quân du kích tự vệ, 458.880 đoàn viên Phụ nữ cứu quốc, 299.904 hội viên nông dân, 237.789 đoàn viên Thanh niên cứu quốc, 70.000 đoàn viên Liên hiệp nghiệp đoàn, 68.000 đội viên Thiếu nhi cứu quốc, 15.733 tiểu đội nữ dân quân, 11.229 lớp bình dân học vụ, 160 Hội Bà mẹ chiến sĩ... chúng ta có thể hình dung được sức mạnh tổng hợp vĩ đại của cuộc chiến tranh Nhân dân thần thánh trên chiến trường Nam Bộ nói chung và ở chiến khu Đồng Tháp Mười nói riêng. Đó là nhân tố bảo đảm cho việc xây dựng căn cứ địa kháng chiến phát triển vững chắc.
Đồng Tháp Mười là "Việt Bắc của Nam Bộ", là "mồ chôn giặc Pháp"
Bị thất bại trong việc thực hiện ảo tưởng của tướng Leclerc mưu toan bình định Nam Bộ vào 3 tháng cuối năm 1945, Bộ tham mưu quân viễn chinh Pháp huênh hoang tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ trong mùa Thu năm 1947. Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh kêu gọi: "Đồng bào Nam Bộ hãy đánh mạnh hơn nữa để cùng Việt Bắc đập tan kế hoạch tiến công mùa đông của địch". Nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Đảng, trong năm 1947 bằng hai trận giao thông chiến nổi tiếng xuất phát từ Đồng Tháp Mười, quân dân ta trên chiến trường Khu 8 đã nện cho địch những đòn chí mạng:
Một là, chiến thắng trận Cổ Cò (xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho). Sáng mùng một Tết, tức là ngày 22/01/1947, ba đại đội của Chi đội 17, ba đại đội của Chi đội 18, một đại đội học viên trường Quân chính Quân khu do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến - Chi đội trưởng Chi đội 18 chỉ huy, có lực lượng Quốc vệ đội và du kích các xã huyện Cái Bè tham gia, phục kích một trận địa dài trên đường số 4 tại Cổ Cò. Chỉ sau hai giờ chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt gọn đoàn xe gồm 8 thiết giáp, 6 xe tải quân sự, giết 170 tên sĩ quan và binh lính địch, bắt 15 tên, trong đó có trung úy Bonard - người Đức, thu hơn 120 súng trường, 15 trung liên, 8 đại liên, 12 súng ngắn. Đây là trận đánh lớn, gây tiếng vang trong cả nước.
Hai là, chiến thắng trận Giồng Dứa (xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho) do Khu bộ trưởng Khu 8 Trần Văn Trà chỉ huy. Lực lượng được huy động gồm có: Chi đội 7, đại đội xung phong cơ động Khu, học viên trường Quân chính Khu 8 với sự tham chiến của 2 trung đội dân quân du kích Mỹ Tho, trong đó có 1 tiểu đội nữ.
Đoàn xe địch trải dài đội hình trên 2km từ Trung Lương di chuyển về Cai Lậy rồi đi xuống tiếp tế cho miền Tây đã sa vào trận địa phục kích của ta. Sau gần 30 phút chiến đấu, quân ta đã hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt 14 xe địch và lực lượng Pháp hộ tống, trong đó có đại tá chỉ huy Trocard, bắt sống 7 tên, thu nhiều vũ khí và toàn bộ hàng hậu cần. Trong số bị bắt có kỹ sư La Fouse, đốc phủ Bích, Bộ trưởng giáo dục ngụy quyền Trương Vĩnh Khánh (được phóng thích sau đó theo lệnh của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ). Chiến thắng Giồng Dứa gây chấn động nước Pháp, khiến Chính phủ Pháp phải ra lệnh quốc tang 7 ngày.
Trên báo Sự Thật số 80, phát hành tháng 7/1947 tại chiến khu Việt Bắc, đã viết: "Về chiến tranh du kích thì Miền Nam là nơi bộ đội ta có nhiều kinh nghiệm và lượm được nhiều kết quả... Lối đánh du kích ngày càng thao luyện. Trận phục kích Mỹ Tho là lối đánh kiểu mẫu theo chiến thuật du kích".
Trong dịp kỷ niệm 1 năm Ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1947), quân dân Nam Bộ và Nhân dân chiến khu Đồng Tháp Mười hết sức phấn khởi được nghe lời hiệu triệu của Hồ Chủ tịch. Người nói: "Trận oanh liệt ở Mỹ Tho đã làm cho địch kinh hồn mất vía".
Hàng chục ngàn quân của tên tướng Pháp Xa-lăng bị tiêu hao và tiêu diệt ở Việt Bắc trong Chiến dịch Thu Đông 1947 cùng với sự thất bại chua cay trong những trận giao thông chiến lớn xuất phát từ căn cứ Đồng Tháp Mười, chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp đã bị phá sản. Địch buộc phải chuyển sang đánh kéo dài "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", "dùng người Việt đánh người Việt". Chúng đưa trở lại chiến trường Nam Bộ nhiều đơn vị cơ động Âu Phi và lần thứ 3 trâng tráo ra lời tuyên bố "sẽ bình định Nam kỳ vào tháng 6/1948".
(Còn tiếp)