Nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo: Thầm lặng chiến đấu, anh dũng hy sinh
Mới đây, những lá thư tay viết trong giai đoạn 1949-1953 của Đại tá Phạm Ngọc Thảo, gửi cho bà Phạm Thị Nhiệm, người sau này trở thành vợ ông, đã được gia đình ông công bố. Những lá thư không chỉ thấm đẫm yêu thương của người lính nơi chiến trường dành cho vợ, người đồng chí ở tuyến sau trong những ngày Nam Bộ kháng chiến, mà còn thể hiện lý tưởng sống cao đẹp, khát vọng cống hiến cho độc lập, tự do của ông.
Sứ mệnh cao cả, lớn lao
Đại tá Phạm Ngọc Thảo là một trong những nhà tình báo xuất sắc trong lịch sử quân sự Việt Nam. Ông sinh năm 1922, trong gia đình điền chủ giàu có nổi tiếng ở Long Xuyên và có quốc tịch Pháp từ nhỏ. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp bội ước, quay trở lại Nam Bộ vào tháng 9/1945, chứng kiến sự ngoan cố, đeo đuổi âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, ông đã tuyên bố hủy bỏ quốc tịch Pháp, lựa chọn đi theo cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì nước vì dân, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Các đồng chí, đồng đội cũ và đại diện người thân thắp hương nhân 59 năm ngày giỗ Liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo tại Nhà Dừa, nằm trong khuôn viên Bảo tàng Bến Tre.
Năm 1946, ông là một trong số 13 người Nam Bộ được chọn ra Sơn Tây học khóa đầu tiên tại Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1). Tại đây, ông được những người thầy như Hoàng Đạo Thúy và Trần Tử Bình huấn luyện về quân sự, võ thuật, đồng thời được tôi luyện ý chí và kỷ luật.
Kết thúc khóa học, Phạm Ngọc Thảo trở về Nam, tham gia các hoạt động kháng chiến chống Pháp. Lúc đầu, ông về Phú Yên làm giao liên. Phú Yên chính là trạm nối giữa Tây Nguyên và Nam Bộ. Sau đó, ông được giao đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng phòng Mật vụ Ban Quân sự Nam Bộ - tổ chức tình báo đầu tiên của cách mạng ở Nam Bộ, rồi Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 chủ lực Khu 9, nơi ông trực tiếp cầm súng đánh giặc.

Năm 1946, trong lần làm nhiệm vụ bảo vệ Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, đồng chí Lê Duẩn, khi đó vừa thoát khỏi địa ngục trần gian Côn Đảo, ông đã đưa đồng chí Lê Duẩn an toàn vượt qua các bốt đồn địch, đi từ Phú Yên về vùng giải phóng ở Nam Bộ, để trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Qua chuyến đi cả tháng trời, đồng chí Lê Duẩn đã nhận thấy ở ông những phẩm chất đặc biệt của một người mưu trí, dũng cảm, kiên trung. Đây là lý do khiến sau này Phạm Ngọc Thảo được đồng chí Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam sau Hiệp định Geneva 1954, thực hiện nhiệm vụ luồn sâu vào lòng địch, thâm nhập hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn, hòng xoay chuyển thời cuộc, lật đổ chế độ Mỹ - Diệm, tiến tới thống nhất hai miền Nam-Bắc bằng con đường hòa bình.

Giai đoạn 1954-1965, Phạm Ngọc Thảo hoạt động đơn tuyến, không có sự hỗ trợ của đồng đội, do không thể kết nối được với bên ngoài. Trong lòng địch, giữa muôn vàn hiểm nguy thì mỗi quyết định, mỗi hành động đều là những cuộc chiến cân não. Nhờ sự khôn khéo, nhạy bén và quyết đoán, Phạm Ngọc Thảo đã luôn giành thế chủ động và lập được nhiều chiến công.
Ở cương vị Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng của quân đội ta, ông đã quay trở về quê ở Vĩnh Long, gặp gỡ và kết nối với Giám mục Ngô Đình Thục - người vốn thân thiết với gia đình ông và coi ông như con nuôi. Nhờ chính sách “đả thực bài phong”, khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với “chính nghĩa quốc gia” của Ngô Đình Diệm, Phạm Ngọc Thảo được Giám mục Ngô Đình Thục giới thiệu với anh em Diệm - Nhu. Ông dần dần được “đồng hóa” vào bộ máy của chính quyền Sài Gòn và từng bước gây dựng lòng tin trong hàng ngũ Ngô Đình Diệm. Tháng 11/1960, ông được Ngô Đình Diệm phong tặng cấp bậc Trung tá và cử làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre). Về Bến Tre một thời gian, ông đã ký quyết định thả 2.000 tù chính trị, trong đó có nhiều cán bộ cách mạng và lập tòa án trừng trị bọn phản bội, đầu hàng. Ông cũng cố gắng làm lệch hướng các cuộc càn quét của quân đội Việt Nam Cộng hòa, để giảm tổn thất cho cách mạng.

Con đường mang tên Liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo ở thành phố Bến Tre.
Phạm Ngọc Thảo đứng sau nhiều biến động chính trị ở miền Nam đầu thập niên 1960, góp phần không nhỏ trong cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963. Là người có ảnh hưởng với chính trường Sài Gòn dựa trên các mối quan hệ với nhiều tướng lĩnh ngụy, ông tiếp tục khai thác mâu thuẫn giữa các phe phái, các lực lượng đối lập đang tranh giành quyền lực, khiến nội bộ địch bất ổn, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam.
Tuy nhiên, sau cuộc đảo chính tháng 2/1965, mục tiêu quan trọng hàng đầu là bắt sống Nguyễn Khánh đã không thực hiện được, ông bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa truy nã và kết án tử hình.
Mặc dù cấp trên yêu cầu rời khỏi Sài Gòn, nhưng Đại tá Phạm Ngọc Thảo vẫn quyết trụ lại để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ. Ông bị bắt, tra tấn dã man và qua đời ngày 17/7/1965, khi mới 43 tuổi.
Những lá thư, nguồn tư liệu quý giá
Theo ông Lê Minh Hiền - người thân trong gia đình Đại tá Phạm Ngọc Thảo - 18 lá thư tay, chủ yếu được gửi tới vợ ông là bà Phạm Thị Nhiệm. Những lá thư này được người liên lạc của Phạm Ngọc Thảo là ông Nguyễn Đăng trao cho mẹ ông Lê Minh Hiền là bà Phạm Thị Huân (em gái của bà Phạm Thị Nhiệm) từ năm 1955.
Từ miền Nam xa xôi, những lá thư đã vượt qua khói lửa chiến tranh để đến với miền Bắc Xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ, được gia đình trân trọng lưu giữ cho đến nay.

Vợ chồng Liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo
Khoảng thời gian 75 năm đã khiến một số lá thư viết trên giấy mỏng bị mủn, ở những lá thư khác, nhiều chỗ không đọc được do chữ mờ nhòe. Một vài bức ảnh kèm trong tập thư bị cháy xém do mảnh đạn văng vào từ thời chiến tranh phá hoại. Mặc dù vậy, đây vẫn là nguồn tư liệu quý về cuộc đời hoạt động cách mạng của Phạm Ngọc Thảo, giúp khắc họa chân dung một Phạm Ngọc Thảo mộc mạc, giản dị, đầy ắp yêu thương cho gia đình và đồng đội, nhưng cũng là con người thẳng thắn, cương trực, đã dũng cảm cùng đồng đội lập nhiều chiến công.
Giai đoạn 1949-1953, cả Phạm Ngọc Thảo và bà Phạm Thị Nhiệm đều ở vùng bưng biền Đồng Tháp Mười, nhưng hoạt động ở những địa bàn khác nhau. Bà công tác tại cơ quan, nằm ở căn cứ an toàn. Ông trực tiếp cầm súng đánh giặc. Trong những lá thư gửi vợ, Phạm Ngọc Thảo gửi gắm tình cảm nhớ thương, dành cho bà lời động viên, dặn dò ân cần khi bà sinh con trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn. Ông luôn coi vợ là nguồn động viên, nguồn cung cấp sức mạnh giúp ông vượt qua những áp lực, vững tâm chiến đấu trước những trận đánh lớn và toàn vẹn trở về. Ông cũng không quên nhắc nhở vợ về trách nhiệm của mỗi người đối với vận mệnh đất nước.
Trong lá thư ngày 27/2/1949, ông bày tỏ niềm hạnh phúc khi hai người vừa đính hôn và cam kết cùng nhau gắn kết số phận, cùng nhau chia sẻ mọi nỗi buồn và niềm vui. Ông viết: “Tôi thật hạnh phúc vì có Nhiệm là người bạn đồng hành trong cuộc chiến đấu cũng như trong cuộc sống”.
Khi vợ sinh con đầu lòng, ông hạnh phúc vì lần đầu được làm cha và thể hiện sự quan tâm, chăm sóc một cách đơn sơ, giản dị qua việc “nhờ người mua nôi, mua chiếu và mua mùng (màn) cho con”. Ông viết: “Kỳ này trở ra chiến trường, tôi mang theo một sự mới mẻ trong lòng và sẽ ráng làm tròn nhiệm vụ để mau trở về hôn mẹ và con”.
Thông qua những lá thư, có thể hình dung phần nào vùng Đồng Tháp Mười rộng lớn và hoang hóa, kênh, rạch chằng chịt, nơi ghi dấu chân của những cán bộ, chiến sĩ cách mạng năm xưa. Khi đó nơi đây, trụ sở các cơ quan, đoàn thể, nhà ở của cán bộ, lán trại của chiến sĩ, tất cả đều bằng tranh, tre, nứa, lá; ghe xuồng là phương tiện đi lại phổ biến. Nơi đây, bộ đội chủ lực và du kích địa phương đã sát cánh bên nhau, bám trụ chiến đấu trước những đợt bố ráp điên cuồng, lùng sục gắt gao của địch nhằm mở rộng vùng chiếm đóng.
Trong lá thư ngày 27/4/1952 gửi vợ, ông kể về một trận đánh ác liệt, khi ta và địch đánh giáp lá cà. Do thiếu đạn dược, bộ đội của ta phải dùng cả dao găm, báng súng mà giết giặc. Rồi ông tâm sự về cảm xúc đau buồn, thương tiếc khi phải làm lễ truy điệu cho những người bạn, người đồng đội vừa nằm xuống. Một thời kỳ gian khổ nhưng oanh liệt, hào hùng của Nam Bộ kháng chiến hiện ra qua từng con chữ.
Trong cuộc trường chinh oanh liệt chống giặc ngoại xâm của dân tộc, Phạm Ngọc Thảo cũng như nhiều người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống. Ở lằn ranh sinh tử, họ đã chọn hy sinh cho tổ quốc trường tồn. Những cống hiến, hy sinh của họ đã hòa thành bản anh hùng ca của dân tộc, góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975. Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng đất nước, quê hương mãi ghi nhớ công ơn những người đã hòa tan xương máu của mình trong lòng quê hương, đất nước. Ký ức về Phạm Ngọc Thảo sẽ luôn là ngọn lửa bất diệt về tinh thần yêu nước, về ý chí độc lập, tự do. Ký ức đó tiếp tục truyền đi khát vọng về sự dấn thân, sự cống hiến và nỗ lực kiến tạo cho hòa bình và phát triển trong thế hệ trẻ hôm nay.