Bài toán cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ giá

Nền kinh tế Việt Nam đang theo đuổi mục tiêu vào nhóm quốc gia có thu nhập cao trước năm 2045, đồng thời vẫn kiểm soát lạm phát và bảo vệ sức mua của tiền đồng Việt Nam. Kinh nghiệm phát triển của các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Singapore cho thấy tỷ giá, năng suất và lạm phát tạo thành ba trục chiến lược liên kết chặt chẽ với nhau, tạo nền tảng phát triển và chịu được những cú sốc trước những biến động vĩ mô.

Tỷ giá giữa tiền đồng Việt Nam (VND) và đô la Mỹ đã chạm mốc kỷ lục. Trong bối cảnh các đồng tiền khác đều tăng giá với đô la Mỹ từ đầu năm khi đô la Mỹ yếu đi thì việc VND tiếp tục mất giá so với đô la Mỹ khiến VND mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác trên thế giới. Điều đó cũng góp phần giải thích tại sao thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh trong thời gian qua nhưng lượng bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang ở mức kỷ lục. Đơn cử như trường hợp các quỹ đầu tư từ châu Âu, phần mất giá của VND so với euro từ đầu năm có thể xóa bỏ toàn bộ thành quả tăng trưởng danh mục đạt được trong cùng thời gian.

Tỷ giá giữa tiền đồng Việt Nam (VND) và đô la Mỹ đã chạm mốc kỷ lục. Ảnh: TL

Tỷ giá giữa tiền đồng Việt Nam (VND) và đô la Mỹ đã chạm mốc kỷ lục. Ảnh: TL

Tỷ giá không chỉ là một phương tiện trao đổi quốc tế mà còn phản ánh sức mua và ảnh hưởng đến năng suất lao động khi so sánh giữa các nước với nhau. Tỷ giá tăng nhanh có thể khiến năng suất lao động khi quy về đô la Mỹ bị sụt giảm. Trong 35 năm qua, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tính theo đô la Mỹ đã tăng gần 50 lần, lên xấp xỉ 4.700 đô la năm 2024. Tuy nhiên, tốc độ tăng thu nhập tính theo đô la Mỹ luôn chậm hơn so với VND do đồng nội tệ mất giá trung bình 2-3% mỗi năm. Trái lại, Nhật Bản từng có giai đoạn chỉ duy trì tăng trưởng GDP thực ở mức 3% nhưng vẫn nâng thu nhập bình quân đầu người nhờ đồng yen mạnh dần theo thời gian. Singapore cũng lựa chọn con đường giữ lạm phát ở mức thấp và ghìm đà tăng của tỷ giá để giữ vững sức mua của người dân. Những bài học lịch sử này cho thấy đồng nội tệ yếu hay mạnh không tự thân là tốt hay xấu, mà quan trọng ở cách điều chỉnh gắn liền với năng suất lao động và chiến lược phát triển của từng quốc gia.

Bài học từ câu chuyện tăng trưởng của các nền kinh tế châu Á

Trước khi đi sâu vào hiện trạng của Việt Nam, cần nhìn lại con đường phát triển mà các nền kinh tế châu Á đã đi qua. Trong đó, sự thịnh vượng của các quốc gia chuyển đổi trạng thái kinh tế thành công luôn là sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và gia tăng giá trị của đồng tiền. Mỗi quốc gia lựa chọn một công thức riêng, nhưng tất cả đều xoay quanh bài toán cân bằng giữa tỷ giá, rủi ro lạm phát và yêu cầu nâng cao năng suất.

So với các quốc gia trong khu vực thì tỷ giá của Việt Nam luôn có một sự khác biệt lớn. Nếu như biến động của các nước trong khu vực luôn diễn ra rõ ràng ở các giai đoạn đồng tiền tăng giá rồi giảm giá so với đô la Mỹ, thì VND thường chỉ trong một xu hướng mất giá đều, đi kèm với một số giai đoạn mất giá mạnh.

Câu chuyện Nhật Bản bắt đầu với giai đoạn neo cứng tỷ giá 1 đô la Mỹ = 360 JPY từ năm 1949-1971. Trong thời kỳ này, nền kinh tế tận dụng đồng yen giá rẻ để thúc đẩy xuất khẩu thép, ô tô và điện tử, đưa GDP thực tăng trên 9%/năm. Sau cú sốc dầu năm 1973, Tokyo chuyển sang cơ chế tỷ giá thả nổi có điều phối và đồng yen liên tục lên giá trung bình 4%/năm giai đoạn 1973-1995. Nhờ vậy, giá nhập khẩu nhiên liệu và linh kiện giảm, lạm phát được giữ dưới 3% dù tăng trưởng hạ xuống 3-4%. Đáng chú ý, thu nhập bình quân đầu người tính theo đô la Mỹ vẫn đi lên, chứng minh rằng một đồng tiền mạnh có thể bù đắp tăng trưởng chậm nếu năng suất và giá trị gia tăng đủ lớn.

Hàn Quốc lại chọn một con đường khác trong giai đoạn tiền tăng trưởng. Sau chiến tranh, Seoul thực hiện ba đợt phá giá liên tiếp chỉ trong 18 tháng, giai đoạn 1960-1961, đưa tỷ giá từ 50 lên 130 won/đô la, tức mức trượt tới 100%. Bước đi này tạo cú hích lớn cho xuất khẩu vải sợi, thép và tàu biển, giúp GDP thực tăng trên 8%/năm trong suốt thập niên 1960. Quốc gia này tiếp tục giảm giá trị đồng tiền đều đặn so với đô la Mỹ hàng năm để hỗ trợ xuất khẩu. Tuy nhiên, khi thu nhập bình quân đầu người vượt 10.000 đô la vào đầu thập niên 1990, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc duy trì đồng won ổn định, điều tiết linh hoạt để kiểm soát nhập khẩu, đồng thời thúc đẩy các chaebol đầu tư vào lĩnh vực chip và điện thoại di động. Tính từ giai đoạn sau khi khủng hoảng châu Á năm 1997 đến nay thì đồng won chỉ dao động trong biên độ lớn từ 1.000-1.400 won/đô la.

Trung Quốc chọn cách đi mạnh mẽ ngay từ đầu. Năm 1994, Bắc Kinh sáp nhập hai thị trường ngoại hối và để nhân dân tệ trượt từ 5,8 xuống 8,7 nhân dân tệ/đô la chỉ trong vài ngày, tức mất giá 50%. Kết quả là xuất khẩu bùng nổ và FDI đạt kỷ lục 35 tỉ đô la ngay trong năm đó. Sau bước ngoặt này, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc duy trì cơ chế neo mềm, giữ tỷ giá ổn định quanh 8,28 trong khủng hoảng châu Á 1997-1999, rồi cho phép lên giá dần khoảng 2%/năm trong giai đoạn 2005-2013. Chính sách này giúp nhập khẩu công nghệ thuận lợi và lạm phát duy trì dưới 3%. Nhằm cân bằng lợi ích và chi phí, Trung Quốc gắn thu hút FDI với ràng buộc chuyển giao công nghệ, biến phá giá thành đòn bẩy chiến lược thay vì giải pháp ngắn hạn.

Khác với ba ví dụ trên, Singapore chọn con đường thúc đẩy gia tăng năng suất lao động từ sớm. Quốc gia này điều hành tỷ giá dựa trên rổ tỷ giá, ưu tiên kiểm soát lạm phát thay vì chạy theo tăng trưởng sản lượng. Từ năm 1980-2024, đồng SGD lên giá trung bình 1,5%/năm, trong khi năng suất lao động tăng 2,9%/năm, đưa GDP bình quân đầu người tăng 279 lần, đạt gần 89.000 đô la hiện nay. Đồng tiền mạnh giúp giảm chi phí nhập khẩu lương thực, năng lượng và tư liệu sản xuất, giữ lạm phát lõi dưới 2% trong phần lớn thời gian 40 năm qua, đồng thời duy trì bất bình đẳng ở mức thấp. So với Hàn Quốc, Singapore chấp nhận tốc độ tăng GDP thực chỉ 3-4% nhưng bù lại bảo đảm chất lượng sống và duy trì sức hút nhân tài cao cấp.

Từ bốn bài học trên có thể thấy, không có lộ trình tỷ giá chung cho mọi quốc gia. Hàn Quốc và Trung Quốc tận dụng phá giá để cất cánh kinh tế, nhưng khi thu nhập tăng, họ dần để nội tệ lên giá nhằm kiềm chế lạm phát. Nhật Bản và Singapore lại đi theo chiến lược đồng tiền mạnh từ sớm để bảo vệ sức mua khi năng suất đã đạt chuẩn cao. Điểm chung là chính sách tỷ giá luôn gắn với cải cách sản xuất và dự trữ ngoại hối dồi dào. Thiếu một trong hai yếu tố, thì việc phá giá dễ biến thành vòng xoáy lạm phát, còn đồng tiền mạnh quá sớm có thể bào mòn sức cạnh tranh xuất khẩu.

Thách thức hiện hữu cho Việt Nam

Việt Nam hiện duy trì cơ chế biên độ tỷ giá ±5% quanh tỷ giá trung tâm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc điều chỉnh phá giá diễn ra đột ngột theo các cú sốc bên ngoài, khiến thị trường hình thành kỳ vọng VND sẽ tiếp tục giảm. Để khắc phục, Ngân hàng Nhà nước cần công bố công thức điều chỉnh dựa trên chênh lệch lạm phát và năng suất với đối tác thương mại. Cách làm này tạo nền tảng dự báo được, giảm tình trạng găm giữ ngoại tệ và giúp ổn định tỷ giá thực (REER).

So với các quốc gia trong khu vực thì tỷ giá của Việt Nam luôn có một sự khác biệt lớn. Nếu như biến động của các nước trong khu vực luôn diễn ra rõ ràng ở các giai đoạn đồng tiền tăng giá rồi giảm giá so với đô la Mỹ, thì VND thường chỉ trong một xu hướng mất giá đều, đi kèm với một số giai đoạn mất giá mạnh. Một ví dụ điển hình là giai đoạn đô la Mỹ tăng giá mạnh khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) neo lãi suất ở mức cao, VND mất giá so với các đồng tiền khác. Nhưng khi đô la mất giá từ đầu năm 2025 đến nay so với các đồng tiền khác thì VND vẫn tiếp tục mất giá hơn 3%.

Nếu không cải thiện, việc VND mất giá nhanh sẽ nhanh chóng tạo ra lạm phát nhập khẩu. Vì vậy, trụ cột đầu tiên là tái cơ cấu dòng vốn FDI, dịch chuyển từ dệt may và lắp ráp điện thoại sang các ngành có hàm lượng công nghệ cao như bán dẫn, thiết bị y tế và logistics, đồng thời đặt yêu cầu tỷ lệ R&D nội địa tối thiểu 2% doanh thu. Trụ cột thứ hai là thành lập Quỹ Future Skills, trích 1% quỹ lương của doanh nghiệp để tài trợ đào tạo AI, robot và quản trị carbon, nhằm tăng năng suất lao động.

Cuối cùng, cần bảo vệ nhóm dễ tổn thương trước tác động của biến động tỷ giá. Thống kê cho thấy khi VND mất giá mạnh thì CPI đều bị ảnh hưởng mạnh trong các quí sau đó, làm chi phí sinh hoạt của nhóm thu nhập thấp tăng mạnh và bào mòn hiệu quả chính sách. Do đó, Chính phủ cần thiết lập cơ chế trợ giá xăng dầu, điện, nước có mục tiêu dựa trên ngưỡng tiêu thụ cơ bản, tránh sự ảnh hưởng lan truyền. Đồng thời, Bộ Công Thương nên công bố báo cáo tác động của tỷ giá đến chi phí sinh hoạt hàng quí, phân tích rõ lợi và hại, giúp người dân và doanh nghiệp điều chỉnh kỳ vọng hợp lý, hạn chế đầu cơ găm giữ ngoại tệ.

Lịch sử phát triển của bốn nền kinh tế Đông Á cho thấy tỷ giá chỉ là một trong ba trụ cột, bên cạnh năng suất và lạm phát, để kiến tạo tăng trưởng bền vững. Điểm chung là mọi quốc gia đều đổi chiến lược tỷ giá đúng thời điểm và song song cải cách cấu trúc.

(*) CFA

Lê Hoài Ân (*)

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/bai-toan-can-bang-giua-tang-truong-kinh-te-va-ty-gia/