Bản hùng ca trên Đường 20
Câu chuyện về 11 chiến sĩ cách mạng đã anh dũng ngã xuống trong trận tập kích Đồn Ngô Văn trên Đường 20 cách đây hơn nửa thế kỷ, một dấu mốc bi tráng khắc sâu vào lịch sử xã Lộc An, huyện Bảo Lâm cũ (nay là xã Bảo Lâm 2, tỉnh Lâm Đồng), đã trở thành biểu tượng bất tử của tinh thần chiến đấu vì độc lập, tự do.
Bài 2: Nỗi đau tột cùng của người vợ liệt sĩ
Đường 20, con đường nhựa mờ sương của mùa khô năm 1969, không chỉ là tuyến giao thông huyết mạch vùng Nam Tây Nguyên, mà còn là con đường đẫm máu và nước mắt.

Bà Phạm Thị Huệ (86 tuổi), vợ liệt sĩ Phạm Ngọc Châu
Chọn chết vì vinh dự
Trong số những câu chuyện bi tráng về 11 chiến sĩ ngã xuống tại Đồn Ngô Văn trong trận tập kích năm đó, có một câu chuyện về sự hy sinh thầm lặng, kéo dài hơn nửa thế kỷ của người vợ liệt sĩ Phạm Ngọc Châu - bà Phạm Thị Huệ.
Bà Huệ sinh năm 1939, năm nay đã 86 tuổi, đi lại rất khó khăn nhưng tinh thần vẫn minh mẫn và giọng nói vẫn rành rọt khi kể về cuộc đời mình, từ khi lấy chồng, tham gia cách mạng… “Hồi xưa chúng nó (lính ngụy) chích điện vào hai bên đùi tôi, giờ hai chân tôi yếu, cứ như không có xương!”, bà Huệ nhớ lại.
Thời thanh xuân của bà Huệ và ông Châu là thời kỳ ly tán của đất nước. Bà là người Quảng Nam, còn ông Châu quê ở Bình Định. Họ gặp nhau tại Lâm Đồng, nơi tập trung những người lao động nhập cư làm tại các đồn điền chè, cà phê. Hạnh phúc tròn đầy khi lần lượt 6 người con ra đời. Khi ông Châu hy sinh, bà Huệ đang mang thai người con thứ bảy.
Bà Huệ sớm tham gia cách mạng từ năm 1963. Bà được giao nhiệm vụ vận động bà con thực hiện “hũ gạo nuôi quân”. Bà từng nghĩ rằng mình tham gia bí mật trước cả chồng, nhưng về sau mới ngờ ngợ rằng ông Châu cũng đã tham gia cách mạng từ trước, chỉ giữ kín ngay cả với vợ.
Năm 1968, trước áp lực “bắt quân dịch” ngày càng tăng, ông Châu bị bắt đi lính. Ông nhận ra mình phải đối diện với lựa chọn định mệnh. Trong một lần bà xuống Nha Trang tìm ông, ông đã nói: “Tôi phải trốn!”. Ông xin về nhà nghỉ phép một tháng và chính trong khoảng thời gian ấy, ông đã có cuộc nói chuyện sinh tử với vợ.
“Bây giờ đi đâu, ở đâu thì cũng chết!” – bà nhớ lại đêm ông dỗ dành bà để vào rừng theo cách mạng. Hai con đường, ông nói: “Đi cho Quốc gia (chính quyền Việt Nam Cộng hòa) thì cũng chết. Chết sau này không có ý nghĩa gì hết. Mà đi theo Việt Cộng thì cũng chết. Nhưng nếu tôi đi theo Việt Cộng, tôi có chết rồi thì bà vinh dự một chút, con cái nó cũng được có tương lai một chút”. Ông đặt vận mệnh cả gia đình vào lý tưởng cách mạng.
Bà Huệ phản đối như bất kỳ người vợ nào: “Tôi nói ổng khùng rồi hả? Bảy đứa con bây giờ ổng để đó cho tôi rồi ổng đi? Đi biết giờ nào mà về?”.
Nhưng ông Châu đã chọn xong: “Thôi bây giờ bà ở lại, bà nuôi con đi. Tôi đi, có một ngày mai tôi sẽ về”. Lời dặn tưởng như hứa hẹn, nhưng lại là lời từ biệt cuối. Ông lấy vài bộ đồ, cùng các đồng chí đi vào đêm tối hun hút. Đó là đêm cuối cùng bà còn gặp ông khi còn sống.

Bà Phạm Thị Huệ bên ban thờ chồng mình
Nỗi đau xé lòng trong đêm lửa Đồn Ngô Văn
Đêm 3, rạng sáng 4/11/1969, trận đánh kinh hoàng tại Đồn Ngô Văn diễn ra. Thời điểm này, nhà bà Huệ ở ngay gần đồn. “Khoảng 12 giờ đêm. Tôi nghe thấy tiếng nổ. Một cái trái sáng, rồi nhiều cái trái sáng bật lên, sáng tròn cả khoảng trời đất trên Đồn Ngô Văn. Rồi liền sau đó là tiếng nổ, tiếng súng ầm ầm”, bà Huệ hồi tưởng.
Mười chiến sĩ hy sinh đêm đó bị lính ngụy kéo lê trên đường, không ai dám lại gần. Rồi một toán lính đến nhà bà, hỏi bà có phải vợ ông Châu không. Linh tính về điều chẳng lành khiến bà ù tai, hoa mắt, đầu óc quay cuồng. Chúng giải bà ra chỗ để xác các chiến sĩ. Giữa đống thi thể bị biến dạng, bà nhận ra chồng ngay lập tức.
Chúng dụ bà nhận xác để mang về chôn cất. Bà đau đớn tột cùng, nhưng cố nén mình. “Ổng chết rồi, tôi tái tê hết rồi. Tôi không còn biết cái gì nữa. Đầu óc tôi lùng bùng!”. Trong khoảnh khắc ấy, bà quyết định không nhận xác chồng, để bảo vệ mình và 7 đứa con. Bởi khi nhận diện một người lính cách mạng, người thân sẽ bị tra tấn, bỏ tù, thậm chí không còn đường sống.
Lính ngụy tra khảo bà ngay bên cạnh thi thể chồng, nhưng bà vẫn một mực không nhận. Chúng gọi bà là “ngoan cố”. Để tăng thêm áp lực, chúng man rợ chặt đầu thi thể ông Châu, đặt lên thùng phuy hòng uy hiếp tinh thần.
Bà Huệ như chết lặng, lê bước đi qua cảnh tượng rùng rợn có xác của chồng để trở về với đàn con thơ. Ông Châu ngã xuống vì lý tưởng, vì tương lai của con cái nhưng tiếc là đến nay "nấm mồ" không còn dấu vết.

Ông Nguyễn Hữu Khuyến, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Bảo Lâm 2 (bên phải) thăm và tặng quà bà Phạm Thị Huệ nhân ngày giỗ trận Đồn Ngô Văn
Khoảng lặng...
Dù hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, địch thường xuyên gây khó dễ việc làm ăn, nuôi con, nhưng sự uy hiếp ấy không làm bà Huệ sợ hãi. Bà vẫn gồng mình nuôi 7 người con, vừa lo làm ăn vừa tiếp tục tham gia cách mạng.
Ngày 30/4/1975, miền Nam giải phóng, niềm vui hòa cùng nước mắt. Bà được cử đi học, làm cán bộ, trở thành một trong những Bí thư Đảng ủy đầu tiên của xã Lộc An (cũ). Nhưng trong sâu thẳm, bà vẫn mang nỗi buồn: “Người ta đi thì về, còn chồng mình thì không về… Rồi lúc đau ốm, bệnh tật có ai san sẻ!”.
Câu chuyện đời bà Phạm Thị Huệ, vợ liệt sĩ Phạm Ngọc Châu, là bức chân dung sinh động về sự hy sinh không thể bù đắp: Chấp nhận để chồng ra đi chiến đấu, nén nỗi đau tột cùng để sống, để nuôi 7 đứa con, tiếp tục kháng chiến và đi qua nửa thế kỷ với một khoảng lặng không bao giờ lấp đầy, sau niềm vui đất nước thống nhất.
Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/ban-hung-ca-tren-duong-20-411634.html












