Bản xa đón nắng về
Cách trung tâm xã Trung Sơn 15 km, bản Nhồi có 98 hộ, với 552 nhân khẩu nằm nép mình dưới những tán rừng như đang được núi Đèo Bụt, Khe Thát, Khe Hóp chở che. Sau nhiều năm mới có dịp trở lại, bản Nhồi thay đổi đến ngỡ ngàng...
Đường mòn xuyên rừng ngược núi vào bản từng là nỗi kinh hoàng của khách lạ, trở ngại lớn trong việc đi lại, giao thương hàng hóa của người dân giờ được thay bằng con đường bê tông bằng phẳng, uốn lượn men theo những quả đồi xanh ngát. Những nếp nhà lụp xụp, mái lá bạc phếch dần được thay thế bằng những ngôi nhà kín trên bền dưới... Trên đường vào bản, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp những chiếc xe tải đỗ dưới chân đồi chờ người dân thu hoạch quế vận chuyển về xuôi. Điện lưới quốc gia đã về đến bản xua đi sự tĩnh mịch, hoang vu khi màn đêm buông xuống nơi vùng cao...

Bí thư Chi bộ Đinh Thị Linh (ngồi giữa) tuyên truyền các hộ dân không tảo hôn, không kết hôn cận huyết thống.
Trong ngôi nhà cấp bốn 3 gian hai trái vẫn thơm mùi sơn mới, chị Đinh Thị Linh - Bí thư chi bộ vừa bán 1,2 ha quế để thêm thắt tiền làm nhà mới. Chị Linh chia sẻ: “Từ ngày đường được mở, lưới điện quốc gia kéo về với đồng bào không chỉ rút ngắn khoảng cách, thắp sáng bản làng mà còn giúp người dân chúng tôi thuận lợi hơn trong việc nắm bắt thông tin, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tiếp cận tiến bộ khoa học - kỹ thuật để ứng dụng vào sản xuất”. Rót chén nước chè xanh hãm với lá quế sau vườn, chị Linh kể cho chúng tôi nghe chuyện từ khi khai bản lập xóm, rồi chuyện thoát nghèo của người dân nơi đây.
Cách đây tròn 30 năm, khi đấy bản Nhồi chỉ có 5 hộ người Mường, Dao vào khai hoang và 5 hộ người Mông ở Suối Giàng, tỉnh Yên Bái (cũ) di cư về đây. Họ dựng lều, cuốc đất khai hoang, làm nương rẫy, trồng lúa nước; sinh con đẻ cái lập nên bản. Dân Nhồi chủ yếu sống bằng nghề nông và làm rừng; thế nhưng đất nông nghiệp ít, toàn khu có gần 6 ha trồng lúa, chia bình quân mỗi hộ khoảng vài sào ruộng cấy hai vụ, sản lượng lúa chiêm vừa qua đạt 250kg/sào; 1,5ha trồng ngô đảm bảo lương thực và chăn nuôi; 200 ha rừng sản xuất, chủ yếu trồng quế và cây nguyên liệu. Toàn bản có 16 con trâu, bò; 150 con lợn, gần 3.800 con gia cầm và 2 ha mặt nước thả cá. Rừng phòng hộ không bị xâm lấn, không để xảy ra cháy rừng. Người dân trong độ tuổi lao động rủ nhau đi làm ăn xa với những việc phổ thông, cần sức khỏe như: Phụ hồ, thợ sơn, làm mộc...
Đi sâu vào trong bản, qua những con đường uốn lượn trên sườn núi Đát Hóp, trước kia chỉ có 5 hộ, nay đã lên đến 46 hộ đồng bào Mông với 281 nhân khẩu. Đồng bào Mông ở đây mặc dù được Đảng, Chính phủ quan tâm tạo điều kiện cho trâu, bò, lợn gà, thóc giống, cây quế, cây keo giống để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nhưng hầu như cái nghèo vẫn đeo bám lấy họ bởi các hủ tục như: Đẻ nhiều, tảo hôn, canh tác lạc hậu... Hôm nay cũng là ngày Bí thư Chi bộ Đinh Thị Linh vào bản để tuyên truyền đồng bào không tảo hôn, không được kết hôn cận huyết thống.
Chị Linh chia sẻ: “Từng xảy ra trường hợp một đôi trai gái người Mông yêu nhau là anh em họ rất gần nên cán bộ xã, khu dân cư phải tuyên truyền, vận động, thuyết phục, không để xảy ra tình trạng hôn nhân cận huyết thống". Còn nhớ khoảng cuối năm 2020, tôi được chị Linh đưa tới nhà anh Lý A. H để khuyên gia đình không cho con kết hôn sớm. Lúc đó, con gái anh H là Lý T. L mới 14 tuổi. Được cán bộ tuyên truyền vận động, năm 2024, anh H mới gả chồng cho con. Đó là sự quan tâm, đồng hành của cả hệ thống chính trị cộng hưởng với chính sách đúng đắn của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã giúp khơi nội lực, tạo luồng sinh khí mới làm thay đổi tư duy, nếp nghĩ, cách làm cho đồng bào nơi đây. Chẳng có gì vui hơn khi đời sống của bà con từng ngày được cải thiện, qua rà soát vừa qua bản còn 30 hộ nghèo, 3 hộ cận nghèo, chủ yếu là người Mông. Tư duy, tập quán canh tác lạc hậu đã được thay đổi. Nhiều hộ dân đã đầu tư phát triển dịch vụ, vận tải, chăn nuôi gia súc, gia cầm tạo nguồn thu nhập ổn định ở mức cao.
Trải qua bao khó khăn, vất vả, từ khi sống rải rác trên những dãy núi cao, nhiều đời leo lét bên ánh đèn dầu, trĩu nặng nỗi lo thiếu đói, bản xa nay đã đón nắng mới bừng lên một sức sống mới, ấm no, khấm khá hơn. Thành quả đó từ sự nỗ lực của người dân, công sức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đảng viên đưa chủ trương, chính sách, Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội “bám rễ” nơi đất khó.
Nguồn Phú Thọ: https://baophutho.vn/ban-xa-don-nang-ve-244063.htm











