Bạo lực trong xã hội

LTS: Thời gian qua, chúng ta chứng kiến quá nhiều trường hợp bạo lực trong đời sống thường nhật. Phải chăng, sự 'chứng kiến quá nhiều' ấy là do tính phát tán của internet và các công cụ ghi hình cá nhân hay nó đang là một vấn nạn xã hội thực sự nhức nhối?

Căn nguyên của bạo lực

Vào tháng 10 vừa qua, có một vụ án mạng học đường (vâng, không chỉ là bạo lực nữa) diễn ra gây tranh cãi: một học sinh lớp 12 ở Thanh Hóa đâm tử vong bạn học sau khi bị dồn ép và đuổi đánh do mâu thuẫn trong giờ thể dục.

Hiện trường vụ học sinh bị đâm tử vong ở Thanh Hóa (Ảnh cắt từ clip).

Hiện trường vụ học sinh bị đâm tử vong ở Thanh Hóa (Ảnh cắt từ clip).

Gây tranh cãi vì có một nút thắt đạo đức trong diễn biến vụ việc: nam sinh gây án mạng thực chất đã bị đuổi đánh, bị bắt nạt, trước khi vùng lên phản kháng và gây ra hậu quả đáng tiếc. Tôi đọc một số bình luận tỏ ra bất bình và cho rằng chính việc dồn ép người khác như vậy là nguyên nhân chính gây ra vụ giết người.

Mặc dù không đồng tình 100%, nhưng tôi cũng hiểu rằng đó là một tình huống khó. Hãy thử tưởng tượng con bạn thường xuyên bị bắt nạt, và bạn buộc phải lựa chọn: nói với con rằng hãy chống trả, đánh lại; hoặc im lặng chịu trận và chờ báo cáo lại với nhà trường.

Cả hai lựa chọn đều không hoàn hảo được. Nếu chịu trận, con bạn có thể bị đánh nhập viện, hoặc tệ hơn. Nếu phản kháng lại, dùng bạo lực đối chọi bạo lực, hậu quả có thể rất đáng tiếc, như vụ việc vừa qua.

Đấy thực ra là một nan đề với bất kỳ ai đã từng đi học và bị bắt nạt: cuối cùng thì bạn có dùng nắm đấm để nói chuyện lại với kẻ đã dồn ép mình hay không? Tôi biết có những bạn học đã chọn không, và từ đó họ bị bắt nạt nhiều lần trong suốt 4 năm phổ thông, tạo ra những vết thương tâm lý khó lành. Những kẻ bắt nạt biết rằng cậu ta không muốn dùng bạo lực để chống lại.

Có hai cách phổ biến để giải thích căn nguyên của bạo lực: một là xem kẻ phạm tội là người xấu toàn diện, mất nhân tính; và hai là thuyết mất kiểm soát (disinhibition theory), tức trong những hoàn cảnh cụ thể, con người phơi bày mặt tối nhất của họ, và bạo lực nảy sinh.

Nhưng cả hai đều khó giải thích trường hợp vừa rồi. Tôi không nghĩ nam sinh đó là ác quỷ tuyệt đối, dù hành động tước đi mạng sống của bạn học là không thể biện minh. Có thể đó là hành vi mất kiểm soát, nhưng rõ ràng học sinh này không phải là người tấn công đầu tiên. Cậu ta chỉ đáp trả vượt mức từ sự khiêu khích, bắt nạt của người khác.

Năm 2013, một nghiên cứu của Đại học California (Mỹ) đã đặt ra góc nhìn hoàn toàn mới về bạo lực: sau khi phân tích toàn bộ dữ liệu về các hành vi bạo lực trong lịch sử loài người, từ giết người cho đến chiến tranh, họ phát hiện ra một sự thật kinh hoàng. Căn nguyên của bạo lực chính là… niềm tin đạo đức cá nhân. Những người sử dụng bạo lực biết mình gây tổn thương cho con người đồng loại. Dẫu vậy, họ tin rằng đó là việc phải làm.

Giống như cách người Mỹ đổ ra đường ăn mừng khi Osama bin Laden bị giết vào mùa xuân 2011, và gần đây, người Israel tụ tập trên đồi xem bom ném xuống dải Gaza. Bạo lực vẫn được người thường tán thưởng. Đã từng có nhiều nền văn hóa hoặc giai đoạn mà người ta không mấy coi trọng hạnh phúc, hoặc chủ động tìm đến đau khổ để thanh tẩy đạo đức.

Quay trở lại với vụ án mạng học đường ở Thanh Hóa, chúng ta thấy rằng không đơn giản để nhìn nhận bạo lực nếu lờ đi khía cạnh niềm tin đạo đức của nó. Sự đáp trả trên mức cần thiết có thể xuất phát từ một lời dạy rằng không được để người khác chà đạp, bắt nạt, mà phải đánh trả như một nghĩa vụ.

Những khoảnh khắc như thế tồn tại khắp nơi, thậm chí được nhiều người đồng tình. Bố mẹ đánh con vì tin rằng "yêu cho roi, cho vọt". Chồng đánh vợ vì không nghe lời. Vợ đánh tiểu tam vì "phá vỡ hạnh phúc gia đình người khác". Bạo lực nảy sinh vì rất nhiều người trong chúng ta coi đó là công cụ đúng đắn, để duy trì một trật tự nào đó trong xã hội.

Nếu hiểu rõ điều này, bạn sẽ có câu trả lời cho việc lựa chọn: bảo con mình đánh trả khi bị bắt nạt, hay khuyên nó nhẫn nhịn, dùng lời nói, hoặc chờ nhà trường giải quyết.

Một khi chính bạn phải tin rằng bạo lực không phải là công cụ đúng để giải quyết một trật tự nào đó trong xã hội, thì con quái vật mới không có cơ hội trỗi dậy được. Bằng không thì mọi chuyện vẫn thế, vì đơn giản chúng ta sử dụng bạo lực không phải do mất kiểm soát, mà chính vì tin tưởng vào nó.

Phạm An

Ba cột trụ nền tảng

Bạo lực hình thành từ đâu, theo cách nào đi nữa thì ở trong nó con người luôn là chủ thể trọng tâm. Và để giải quyết được tình trạng bạo lực trong xã hội, nhất thiết phải đánh giá và giải quyết được tất cả những yếu tố liên quan tới con người.

Con người tiếp nhận

Con người tiếp nhận chính là yếu tố đầu tiên để có thể bàn xét tới trong việc giải quyết vấn nạn bạo lực trong xã hội. Sự tiếp nhận đó chính là toàn bộ các hoạt động thông tin có tác động tới các cá nhân trong xã hội để họ có thể ý thức được hậu quả của bạo lực sẽ là gì. Trong các hoạt động thông tin ấy, tuyên truyền nắm vai trò cực kỳ quan trọng.

Nhưng tuyên truyền như thế nào lại là câu chuyện hoàn toàn khác. Một ví dụ cụ thể, trong đợt tuyên truyền phòng chống bạo lực trong gia đình ở TP Hồ Chí Minh, trên tờ gấp được phát đi có in khẩu hiệu "Phòng, chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của toàn xã hội". Trong khi đó, ở trường chuyên Lê Hồng Phong, trong hoạt động phổ biến, giới thiệu video, tiểu phẩm chống bạo hành gia đình, khẩu hiệu được sử dụng là "Hạnh phúc sẽ tỏa sáng trong gia đình không có bạo lực". Đọc hai khẩu hiệu đó, chúng ta nghĩ rằng chúng sẽ đọng lại trong trí nhớ mình được bao lâu?

Thực sự, nó sẽ chỉ là một lướt qua chóng vánh mà không để lại bất kỳ dấu ấn nào đủ để chủ thể con người tiếp nhận sẽ ý thức được hậu quả, hệ lụy của bạo lực. Thứ khẩu hiệu nhàm chán, nặng tính hô hào ấy là sản phẩm của một thời kỳ ấu trĩ nhiều thập niên về trước rồi. Trong khi đó, nhu cầu tiếp nhận thông tin của con người hôm nay cần đa dạng hơn về ngôn ngữ và hình thức và đặc biệt là sức hấp dẫn mà thông tin ấy mang lại.

Những khẩu hiệu vô hồn kia rốt cuộc chỉ phục vụ được mục đích của một "đợt ra quân" ngắn ngày lấp đầy các trang báo cáo và tốn kém ngân sách một cách vô ích. Bạo lực không bị triệt tiêu chỉ bằng khẩu hiệu đơn thuần.

Quá trình tiếp nhận thông tin của con người có thể được mô hình hóa như việc bắt sóng radio vậy. Nếu sóng phát đi không ở tần số phù hợp với thiết bị nhận sóng, chắc chắn thông điệp không tới đích. Tuyên truyền cũng vậy thôi, rất cần "bắt được sóng" của số đông. Và số đông có ưa thích khẩu hiệu khô cứng hay không? Đó là một câu hỏi ai cũng có thể dễ dàng trả lời.

Con người tuân thủ

Khi đã thực hiện tốt việc tuyên truyền để hình thành một đội ngũ con người tiếp nhận đông đảo trong xã hội, chúng ta đã có nền tảng cơ bản là một xã hội hiểu đủ sâu về trách nhiệm pháp luật khi có hành vi bạo lực. Nhưng hiểu biết về pháp luật chưa đủ để có thể giúp xử lý rốt ráo vấn nạn bạo lực xã hội. Có không ít người có ý thức rất rõ về hậu quả pháp lý của bạo lực nhưng rốt cuộc họ vẫn có hành vi bạo lực. Nguyên do nào để họ có hành vi như thế? Lúc này chúng ta phải xét tới sự công minh của việc thực thi pháp luật vì chính sự công minh đó mới thôi thúc con người hiểu biết pháp luật thực sự tuân thủ pháp luật.

Chúng ta từng được đọc, nghe, xem về không ít vụ việc, từ bạo lực công cộng cho tới tai nạn giao thông; từ phát ngôn sai lệch trên mạng xã hội cho tới biển thủ, gian dối… nhưng rốt cuộc cách mà công lý được thực thi ở trường hợp này lại khác hoàn toàn ở trường hợp kia cho dù hành vi tương đồng nhau. Chính sự bất công minh đó đã khiến một số người đi tới suy nghĩ "cũng chẳng sao đâu mà". Có những vụ tai nạn giao thông có diễn biến, hành vi tương tự nhau chẳng hạn nhưng lại chỉ có dăm ba vụ bị xử lý hình sự theo đúng trình tự luật pháp trong khi có vài vụ khác lại chìm vào trong lãng quên. Chính sự thiếu công minh ấy sẽ có tác động làm suy giảm niềm tin vào hệ thống pháp luật. Khi suy giảm niềm tin vào pháp luật, chắc chắn con người ta dễ bị thôi thúc dẫn tới vi phạm dễ dàng hơn.

Không thể phủ nhận đã có số ít những vụ việc bị né tránh xử lý chỉ vì những lý do sâu kín nào đó mà khách quan chỉ có thể lý giải bằng thuyết âm mưu. Trong tiếng latin có một câu rất hay về luật pháp là "công lý phải được thực thi cho dù thiên đường có sụp đổ" để nói lên bản chất công minh của thực thi pháp luật. Nhưng trong xã hội loài người, thỉnh thoảng vẫn có những trường hợp sử dụng các sức mạnh riêng biệt nào đó để đứng trên pháp luật và khiến công lý buộc phải tự bịt mắt mình. Chính sự bất công minh này mới là mầm mống cho những phản ứng tiêu cực từ một vài cá nhân trong xã hội. Điển hình là trường hợp của một vụ tai nạn giao thông ở miền Tây Nam Bộ, khi người cha không cảm thấy con mình nhận được sự đền bù thỏa đáng từ công lý, anh ta đã thực thi công lý theo cách riêng của mình: một hành vi bạo lực vi phạm pháp luật một cách đầy mù quáng.

Rất nhiều trường hợp trong xã hội đã bật ra câu hỏi "Tại sao những người vi phạm kia thì không bị xử lý mà lại đi xử lý tôi?" và thật ra, đó là câu hỏi khó. Nó là một đòi hỏi về sự công bằng mà một hệ thống pháp luật nếu được xem là công minh phải thiết lập được sự công bằng như thế. Con người ta thường không tự ý thức về cái sai của mình trước nhất mà rất hay so sánh nó với cái sai phổ biến tương tự từ khách quan. Tất nhiên, khi họ sai, việc xử lý họ là kiên quyết phải làm nhưng liệu nó có khiến người bị xử lý cảm thấy tâm phục khẩu phục hay không?

Như vậy, nhất thiết cần giải quyết tận gốc các thiếu công minh đang tồn tại để từ đó, con người tiếp nhận đã có trở thành con người tuân thủ. Và chính việc chế tài công minh những con người vi phạm sẽ mang lại những cảnh báo có sức nặng để những người khác trong xã hội nhìn vào đó mà biết dừng lại trước khi thực hiện hành vi bạo lực. Các ví dụ về nhiều trường hợp bị cơ quan chức năng mời lên làm việc, xử lý chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi có hành vi bạo lực công cộng bị ghi hình lại và đưa lên mạng xã hội gần đây đã giúp hình thành ý thức phi bạo lực trong cộng đồng. Và ở đây, chúng ta thấy rõ, như một vòng lặp, các xử lý công minh cũng tạo ra nội dung tuyên truyền tốt để con người tiếp nhận tiếp tục tiếp nhận và hình thành con người tuân thủ.

Con người hưởng thụ

Nhưng quan trọng nhất vẫn phải là con người hưởng thụ. Khi đã hình thành tốt cộng đồng con người tiếp nhận, con người tuân thủ trong xã hội rồi, bạo lực chưa thể bị triệt tiêu nếu thiếu con người hưởng thụ. Chính những con người hưởng thụ mới góp phần rất lớn tạo ra một xã hội bình yên, phi bạo lực. Đơn giản, con người ích kỷ và ưa thích vùng an toàn. Không ai dại gì xé bỏ vùng an toàn hưởng thụ và hạnh phúc chỉ để nhận về một kết cục lao lý cả.

Hãy thử nhìn nhận lại cách mà người Việt cư xử với nhau mỗi dịp Tết nguyên đán, chúng ta sẽ nhận thấy rất rõ ràng "tại sao lúc ấy người với người hiền lành đến vậy?". Một vụ va quẹt xe vào ngày mùng một Tết thường sẽ kết thúc bằng nụ cười, lời xin lỗi, lời nhắn nhủ "chú ý giữ an toàn" và cả lời chúc năm mới cho dù các chủ thể trong vụ va quẹt ấy không hề quen biết nhau. Cơ bản, dịp Tết là khi con người ta có tâm trạng vui vẻ, từ bi hỉ xả, kiêng cữ những chuyện nóng giận. Nói tóm lại, khi tâm lý thoải mái, tinh thần thư thái, không ai còn bận tâm đến chuyện động tay, động chân. Nhưng mỗi một năm không chỉ có dăm ba ngày Tết mà còn lại đó là hơn ba trăm ngày thường với bộn bề lo toan. Chính những áp lực thường ngày tích tụ, dồn nén lại nhiều khi sẽ là một chiều kích vô hình mà các chủ thể không kịp nhận ra trước khi có hành vi bạo lực. Hành vi bạo lực ấy nhiều khi chỉ là cái van xả mà sau khi sự việc xảy ra rồi, sự ân hận mới tới rất muộn màng.

Như thế, việc xây dựng một đời sống tốt hơn, con người được hưởng thụ tốt hơn, ít các áp lực âu lo hơn sẽ khiến các cá nhân yêu sống hơn. Chính lòng yêu sống đó sẽ khiến họ ý thức rõ ràng hơn về hệ quả của các hành động. Ngược lại, nếu quá nhiều bất công, ngang trái và áp lực, chắc chắn sẽ có những người vô tình xả ra bằng bạo lực ở thời khắc nào đó, trước một ai đó.

Xây dựng một xã hội nhiều con người được hưởng thụ cũng chính là mục tiêu đã được Đảng đề ra. "Lấy hạnh phúc của người dân làm trọng tâm" chính là một quyết sách đúng đắn nhất. Khi hạnh phúc, người ta sẽ không còn động lực nào khác cho bạo lực nói riêng và các vi phạm pháp luật khác nói chung. Nhưng con đường đi tới hạnh phúc là một con đường dài và đòi hỏi ở đó rất nhiều hy sinh, đặc biệt là hy sinh từ những người đang đảm nhận trách nhiệm trước cả một cộng đồng.

Hà Quang Minh

Trạng thái "vô trùng ảo"

Các quy định về xuất bản văn hóa ngày nay tạo ra một sự lảng tránh tất yếu với vấn đề bạo lực. Làm sao có thể chống một thứ khi mà ngay cả việc nhận diện nó cũng bị khước từ?

Đã hơn 20 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ hình ảnh người cán bộ tuyên truyền đứng trên bục giữa sân trường, trước hàng trăm học sinh phổ thông, và mô tả về một người nghiện bẻ đôi chiếc bàn chải đánh răng trong trại cai nghiện, tự đâm thủng mắt mình. Anh ta cần một cơn đau khôn cùng để quên đi cơn nghiện đang dày vò. Hình ảnh đó gây sốc, ám ảnh, đặc biệt là với những đứa trẻ, nhưng nó có tác động to lớn đến nhận thức của chính tôi sau này - một người làm báo và có nhiều cơ hội tiếp cận với "anh em xã hội" - được sờ vào, được mời gọi sử dụng ma túy. Cú sốc khi tưởng tượng ra cảnh đó không bao giờ rời khỏi tôi, nhưng đó là một điều có ích.

Suốt thập kỷ 90, chúng ta đã chống ma túy và nhiều loại hình tội phạm chính bằng việc mô tả chi tiết "kẻ thù" của mình. Hình ảnh những người cán bộ tuyên truyền đứng ở giữa các sân trường và đặc tả những con nghiện cùng xu hướng bạo lực kinh hoàng của họ, đã trở nên quen thuộc với cả một thế hệ. Nhưng thời gian qua đi, trong giới quản lý bắt đầu xuất hiện một quan niệm mới, về nỗ lực xây dựng một môi trường xuất bản "vô trùng" với bạo lực.

Khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện nay tiếp cận xuất bản phẩm, văn hóa phẩm theo… động cơ của chúng. Đơn cử, với chủ đề bạo lực, các sản phẩm bị cấm là những thứ "kích động bạo lực" hoặc "nhằm kích động bạo lực". Việc mô tả chi tiết các hành vi bạo lực bị cấm theo một số văn bản nếu nó "nhằm kích động bạo lực".

Động cơ này là thứ rất khó, nếu không muốn nói là bất khả định lượng hoặc xác định thông qua biện chứng. Việc định vị một ấn phẩm văn hóa bằng động cơ của người làm có thể dẫn tới những kết luận cảm tính. Nếu cơ quan quản lý khẳng định rằng một ấn phẩm có xu hướng "kích động bạo lực", nhà sản xuất rất khó cãi rằng họ mô tả bạo lực "vì mục tiêu giáo dục".

Trong bối cảnh nhiều phần của thị trường nội dung (phim, sách, truyện, chương trình giải trí…) đã được xã hội hóa, do khu vực tư nhân đầu tư, lấy lợi nhuận và sự ổn định trong kinh doanh làm tiêu chí, quy luật này sẽ tạo ra một bản năng lảng tránh luôn chủ đề đó. Không nhắc đến luôn cho lành.

Nhưng khi một chủ đề hoàn toàn không được nhận diện, không được mô tả, mà lại có yêu cầu "phòng, chống" - đặc biệt là trong môi trường giáo dục phổ thông - lại tạo ra những bất cập mới. Ngay cả khi tất cả các nội dung trong nước sạch bóng các mô tả bạo lực, môi trường giáo dục cũng không thể vô trùng. Internet ngày nay cho phép những công dân nhỏ tuổi của nước ta tiếp cận với nội dung từ khắp nơi trên thế giới. Họ sẽ đọc truyện tranh Nhật Bản, đọc truyện trinh thám Bắc Âu - những thứ thường xuyên mô tả bạo lực với tần suất cao - thậm chí không cần được dịch sang tiếng Việt (để có cơ quan kiểm duyệt), vì ngày nay giới trẻ sử dụng ngoại ngữ rất cừ.

Họ sẽ đọc một cách hồn nhiên, không thể hiểu tại sao đây lại là những nền văn hóa có tỷ lệ tội phạm và bạo lực thấp bậc nhất thế giới? Sao người Na Uy lại có thể viết về giết người một cách thản nhiên như vậy? Có những quốc gia mà bạo lực được thừa nhận, thậm chí mô tả kỹ lưỡng như một cách phòng chống: thông điệp của các văn hóa phẩm này luôn hướng người ta đến nhận thức "bạo lực không phải lời giải cho mọi vấn đề trong cuộc sống". Nhưng để đến được thông điệp đó, văn hóa đại chúng và giáo dục phải song hành trong một quan niệm thống nhất. Ở đây, trong một môi trường "giả vô trùng", giới trẻ vẫn sẽ tiêu thụ nội dung bạo lực từ nước ngoài một cách thiếu định hướng.

Thực chất, văn hóa đại chúng Việt Nam cũng đã từng thành công trong nỗ lực "nhận diện để phòng chống" một lần. Đó là khi "cơn bão trắng" quét qua các đô thị Việt Nam trong thập kỷ 90. Chúng ta không ngần ngại mô tả tác động của ma túy, để mỗi bạn trẻ nhận thức được sự nguy hiểm và tránh xa. Rất dễ dàng mở một bộ phim truyền hình Việt Nam trong thập kỷ 90 và 2000 lên và nhìn thấy một người nghiện đang phê pha, với cảnh hút chích được đặc tả. Sẽ ra sao nếu một nhà quản lý của thập kỷ 2020 đứng lên và nói rằng việc mô tả trạng thái phê pha này "kích động sử dụng ma túy"? Có thể cuộc chiến chống ma túy của chúng ta đã không thành công đến thế.

Hãy thử tải một tài liệu giáo dục về phòng chống bạo lực của ngành giáo dục về và đọc: bạo lực ở đó, các biểu hiện của chúng, được mô tả khá sơ sài. Trong sự nghiệp cầm bút của mình, tôi cũng đã từng nghe quở trách của nhà quản lý và biên tập viên vì "mô tả chi tiết" các hành vi bạo lực hoặc tội phạm. Tôi tất nhiên không có mục tiêu kích động thứ gì, tôi chỉ có mục tiêu làm công ăn lương theo yêu cầu tòa soạn, nên tôi tránh luôn các chủ đề đó về sau này.

Việc mô tả bạo lực như một cách giải quyết vấn đề của cuộc sống tất nhiên sẽ gây hại. Nhưng việc cố gắng tránh điều đó bằng cách tạo ra một môi trường "giả vô trùng", hoàn toàn khước từ chủ đề, có thể gây hại nhiều hơn. Mô tả bạo lực, cùng với thông điệp giáo dục, là thử thách mà ngành giáo dục và ngành văn hóa sẽ phải chinh phục. Bởi vì nếu bạn mở mạng xã hội ra hàng ngày, bạn sẽ nhận ra rằng nó là một kẻ thù có thật, vẫn đang hoành hành trên đường phố, trong lớp học. Việc không nói về nó hoặc sử dụng các uyển ngữ chung chung không làm nó biến mất.

Đức Hoàng

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/chuyen-de/bao-luc-trong-xa-hoi-i787607/