Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ thời kháng chiến
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để cổ vũ tinh thần quân - dân Đồng bằng sông Cửu Long chiến đấu, Quân khu 8 thành lập Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ và Quân khu 9 cho ra đời Báo Quân Giải phóng miền Tây Nam bộ. Dưới bom đạn ác liệt của giặc, đội ngũ phóng viên vừa đánh địch mở rộng vùng giải phóng vừa viết báo; trong đó, có những người lính cầm bút của Quân khu 8 dù hy sinh vẫn giữ nguyên bản thảo.
CẢI THIỆN TỐT MÓN ĂN TINH THẦN CHO BỘ ĐỘI
Thời chống Pháp, địa bàn Quân khu 8 gồm 5 tỉnh: Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre và Sa Đéc. Giữa năm 1946, Báo Tổ Quốc của Chiến khu 8 ra số đầu tiên do đồng chí Nguyễn Văn Long, Trưởng Phòng Chính trị kiêm Tổng Biên tập.
Báo khổ rộng, in chữ chì, phát hành mỗi kỳ 800 tờ. Ban đầu, 15 hoặc 20 ngày báo ra một số, về sau báo ra hằng tuần.
Đội ngũ phóng viên thời kỳ đầu có Bảo Định Giang, Nguyễn Văn Từ và Hồ Thị Minh; sau đó lần lượt bổ sung Lê Nguyên Phổ, Nguyễn Văn Nghiêm, Ngô Văn Nghiêm, Nguyễn Trọng Bính (Nhà thơ Nguyễn Bính), Việt Ánh, Đằng Giao, Minh Cao, Chi Lăng, Đào Sư Mạnh...
Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Báo Tổ Quốc hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền, cổ vũ tinh thần quân - dân chiến đấu.

Trở về đời thường, phóng viên Hoàng Ái (Tiền Giang), một thời làm Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ trong kháng chiến, vẫn gắn bó với nghề.
Những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, khi Quân khu 8 thành lập thì Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ ra đời thực hiện sứ mệnh trong giai đoạn mới.
Ông Lê Thanh Phong, ngụ tỉnh Đồng Tháp kể: “Tháng 9-1967, sau khi mãn khóa huấn luyện tân binh, tôi được điều về bổ sung cho Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ thuộc Quân khu 8.
Lúc đó, đội ngũ phóng viên Báo Tổ Quốc thời chống Pháp không còn ai; bộ phận nhiếp ảnh có Vũ Hoài Nam và Hoàng Ngọc, viết bài có Trùng Phương, Minh Khiết, Phan Hoài Nam và tôi.
Phóng viên báo phần lớn là con em miền Bắc có năng khiếu tuyển chọn từ các sư đoàn chủ lực và được bồi dưỡng cấp tốc do Báo Quân Giải phóng miền Nam tổ chức.
Riêng tôi chỉ mới học xong lớp nhất trường làng nên có phần lo lắng nhưng nhờ các anh đi trước hướng dẫn, giúp đỡ nên dần dần cũng thạo nghề làm báo”.
Theo ông Phong, mỗi khi vào chiến dịch, Trùng Phương ở lại căn cứ, anh em còn lại chia nhau theo các đơn vị bộ đội. Hình ảnh, bài vở viết xong truyền về máy minh ngữ bên Khu ủy, sau đó chuyển theo đường giao liên hỏa tốc đến Trùng Phương để biên tập và thông qua Ban Tuyên huấn, tiếp đến cử họa sĩ Quang Bộ đem qua nhà in bên Khu ủy in ấn và phát hành.
Báo in 4 trang, khổ 15x20cm, số lượng vài trăm nhưng duy trì thường xuyên; nội dung tập trung thông tin thời sự, phản ánh gương chiến đấu anh dũng, người tốt việc tốt kịp thời đến với bộ đội ngoài mặt trận và nhân dân trên địa bàn.
Ông Phong nhớ lại: “Gần Tết Mậu Thân 1968, Trường Văn hóa Quân khu 8 điều 3 đồng chí Phú, Định và Sơn sang hỗ trợ Tổ báo chí. Mỗi khi trận địa nổ súng thì tất cả phóng viên vào công sự viết bài, lấy đầu gối làm bàn và thắp đèn dầu bằng chai ancol. Địch phản kích, pháo nổ gần, đèn bị tắt liên tục, viết xong bản tin thì đất bụi cũng rơi phủ kín đầu người”.

Lê Trọng Nghĩa (trái) và Lê Văn Thành thuộc Tổ minh ngữ Quân khu 8 phát sóng truyền tin.
Sau chiến dịch Mậu Thân, 3 đồng chí của Trường Văn hóa Quân khu 8 tăng cường trở về đơn vị cũ. Năm 1970, báo được bổ sung nhiếp ảnh Hoàng Ái và đồng chí Đáng, lực lượng viết tăng thêm Lê Trạm, Lê Hoài Thung, Trùng Khánh, Hoài Thanh.
Nhờ vậy, chất lượng báo cũng được nâng lên, cải thiện tốt món ăn tinh thần cho bộ đội. Tuy nhiên, bị thua đau, địch càng điên cuồng lồng lộn, chúng liên tục càn quét đánh phá cả ngày lẫn đêm, đạn cày bom xới tan nát vườn ruộng, chất độc hóa học làm cây cối trơ trụi cành lá.
Ông Phong cho biết: “Tháng 7-1971, Tổ minh ngữ hành quân vượt kinh 12 bị đụng tao ngộ làm rớt mất chiếc ma-níp khiến máy ngưng hoạt động, bài vở không kịp chuyển đi.
Trong cơn bế tắc, anh Mười Trung phụ trách Tổ minh ngữ nghiên cứu, mày mò tìm lục từng mảnh vỡ bom đạn Mỹ và nhờ anh Năm Gấm bên công trường sản xuất vũ khí của tỉnh Mỹ Tho sửa chữa thành công, tạo ra chiếc mới kịp thời giải quyết bài vở đang ứ đọng.
Có điều, lực lượng báo ổn định chưa được bao lâu thì anh Nguyễn Văn Din ở Tổ minh ngữ và phóng viên Phan Hoài Nam hy sinh! Năm 1973, khi anh Mười Trung được điều về công tác ở Ban Liên lạc Quân sự bốn bên thì Tổ minh ngữ được bổ sung anh Lê Trọng Nghĩa và Tô Tấn Việt Châu cho đến ngày giải phóng”.
DÙ ÁC LIỆT THẾ NÀO CŨNG PHẢI GIỮ ĐƯỢC BẢN THẢO
Nhưng sắp đến ngày giải phóng, một nỗi mất mát không gì bù đắp ập đến Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ. Nhóm phóng viên gồm Lê Hoài Thung (quê Nghệ An), Lê Trạm và Trùng Khánh (cùng Thanh Hóa) được cử theo Trung đoàn Đồng Tháp.
Ông Lê Hoài Thung bồi hồi kể: “Trước khi lên đường, Tổ trưởng Trùng Khánh giao nhiệm vụ tôi viết bài tường thuật giải phóng thành phố Mỹ Tho, còn Lê Trạm viết về phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân ven đường 4.
Dù ác liệt thế nào cũng phải giữ được bản thảo. Tôi hiểu anh Khánh dặn kỹ bởi làm báo thời chiến ngoài cây bút, khẩu súng chỉ có bản thảo, sổ ghi chép tư liệu, các cuốn phim đã chụp trong ba lô là tài sản quý giá của phóng viên.
Gần 5 năm làm báo ở Quân khu 8, anh Khánh là phóng viên có nhiều tin, bài được đăng trên Báo Quân Giải phóng miền Nam. Trước khi bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, anh Khánh còn khoe với tôi đã viết xong truyện ngắn “Nơi đầu ấp” và bút ký “Sóng trong đồng”.
Anh còn dự định viết truyện dài về nữ liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Lê Thị Hồng Gấm (xã Long Hưng, huyện Châu Thành) và Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Tòng (xã Phú Quý, huyện Cai Lậy) của tỉnh Mỹ Tho. Vậy mà…”.

Chiếc ma-níp và máy phát sóng của Tổ minh ngữ làm từ vỏ bom Mỹ.
Cũng theo ông Lê Hoài Thung, trên đường tiến công quét sạch hệ thống đồn bốt, chi khu quân sự của địch làm bàn đạp tiến về Mỹ Tho, 3 phóng viên theo đơn vị đi từ Nam lộ 4 vượt qua Bắc lộ, đóng quân trong căn cứ Tỉnh đội Mỹ Tho, sát bờ kinh Tám Nghề thuộc Ấp Bắc, xã Tân Phú, huyện Cai Lậy.
Khoảng 20 giờ ngày 20-4-1975, địch thả bom tọa độ ngay vị trí đóng quân làm phóng viên Lê Trạm và Trùng Khánh cùng một số cán bộ, chiến sĩ hy sinh. “Anh Khánh ngã xuống, tay vẫn ôm chặt chiếc ba lô đựng đầy bản thảo.
Còn khẩu súng trong tay, anh Trạm bắn đến viên đạn cuối cùng. Nén đau thương, tôi lao theo đoàn quân dũng mạnh xông lên cùng đồng đội giải phóng Mỹ Tho.
Ngày 1-5-1975, tôi hoàn thành bài tường thuật “Ngày vui mới trên thành phố Mỹ Tho” gửi phát trên Đài Phát thanh Giải Phóng và đăng Báo Sài Gòn Giải Phóng” - ông Thung nói.
Sau đó, ông Lê Hoài Thung trở lại Ấp Bắc, xã Tân Phú - nơi 2 phóng viên Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ và đồng đội ông ngã xuống trước ngày toàn thắng, thắp nén nhang báo với các anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Phòng Chính trị Quân khu 8 biểu dương khen thưởng.
Đồng thời, ông Thung hứa trước mộ đồng nghiệp sẽ sưu tầm bản thảo, bài viết của 2 anh để đăng báo, tạp chí. May mắn lúc ấy, nhà văn Triệu Bôn là bạn thân và cùng quê với Trùng Khánh đã kịp thời biên tập gửi đăng truyện ngắn “Nơi đầu ấp” và bút ký “Sóng trong đồng” trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Còn ghi chép “Nổi lửa đường 4” và chùm thơ của Lê Trạm được ông Thung gửi đăng Báo Sài Gòn Giải Phóng và Báo Ấp Bắc (Tiền Giang) cuối tháng 5-1975.
Có thể nói, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy cam go, gian khổ, sống giữa rừng bom đạn, cái chết lúc nào cũng cận kề gang tấc nhưng đội ngũ phóng viên Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ luôn vững vàng bám trụ chiến trường, kịp thời viết bài, chụp ảnh đưa tin cho Đài Phát thanh Giải Phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo Quân Giải phóng miền Nam, các báo Trung ương ở Hà Nội. Đặc biệt, Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ in ấn và phát hành đều đặn, hoàn thành sứ mệnh là góp phần cổ vũ, động viên bộ đội và nhân dân quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược, góp phần vào đại thắng mùa xuân năm 1975.
Sau ngày đất nước thống nhất, Quân khu 8 và Quân khu 9 sáp nhập thành Quân khu 9 thì 2 tờ báo cũng đổi tên Báo Quân khu 9 đến nay. Đã nửa thế kỷ trôi qua, dù Báo Quân Giải phóng miền Trung Nam bộ dừng hoạt động không còn nhưng tên tuổi, bài viết, hình ảnh của những người lính “tay bút, tay súng” thời kháng chiến vẫn còn đọng mãi trong lòng quân - dân một thời đánh giặc giải phóng quê hương.