Bảo tồn đa dạng sinh học trong bối cảnh hiện nay: Thách thức và giải pháp
Đa dạng sinh học không chỉ là 'kho báu tự nhiên' mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế xanh và an ninh sinh thái quốc gia. Dù đã có chiến lược quốc gia và nỗ lực từ địa phương, công tác bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn.

Các đại biểu tham gia Hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía bắc". (Ảnh: PanNature)
Thực trạng đáng lo ngại của công tác bảo tồn
Tại Hội thảo “Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía bắc” do Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Trung tâm Con người và thiên nhiên (PanNature) tổ chức ngày 21/10 tại Thái Nguyên, các chuyên gia cho biết, Việt Nam được xếp trong nhóm 25 quốc gia có mức đa dạng sinh học cao nhất thế giới, với hơn 20.000 loài thực vật, 3.000 loài cá, hơn 1.000 loài chim, 300 loài thú, cùng hàng nghìn loài bò sát, lưỡng cư và côn trùng.
Sự phong phú này là kết quả của điều kiện tự nhiên đặc biệt từ địa hình đa dạng, khí hậu nhiệt đới gió mùa đến mạng lưới rừng, sông, hồ, vùng biển phong phú trải dài từ bắc chí nam.

Việt Nam được xếp trong nhóm 25 quốc gia có mức đa dạng sinh học cao nhất thế giới. (Ảnh: PanNature)
Các khu rừng đặc dụng, vườn quốc gia và khu bảo tồn hiện đang là “pháo đài sinh học” của Việt Nam. Toàn quốc có 35 vườn quốc gia, 57 khu dự trữ thiên nhiên, 12 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, cùng 53 khu bảo vệ cảnh quan, góp phần bảo vệ hơn 2,3 triệu ha rừng và lưu giữ những giá trị sinh thái, kinh tế, văn hóa to lớn.
Tuy vậy, công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam vẫn đối mặt với không ít thách thức. Ông Lã Quang Trung, Điều phối viên Bảo tồn thiên nhiên, Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên và phát triển (CCD), đánh giá hiệu quả bảo tồn của 107 loài có đến 77% số loài được đánh giá có mức bảo tồn “rất kém”, 74 loài nguy cấp chưa có kế hoạch bảo tồn cụ thể.

Đại biểu tham dự Hội thảo “Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía bắc” do Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Trung tâm Con người và thiên nhiên (PanNature) tổ chức. (Ảnh: PanNature)
Việc thiếu các kế hoạch bảo tồn đã làm cho nhiều loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm bị bỏ quên cho công tác điều tra, nghiên cứu, bảo vệ và phát triển quần thể, từ đó dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng cao hơn như là các loài trong lớp chim, các loài thú móng guốc và thú ăn thịt.
Bên cạnh đó, tình trạng săn bắt, buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã vẫn diễn ra phức tạp, trong giai đoạn 2016-2021 đã ghi nhận hơn 650 vụ vi phạm liên quan đến 97 loài trong Danh sách Đỏ các loài có nguy cơ tuyệt chủng (IUCN).
Trong số 44 loài thú bị buôn bán trái phép, có tới 16 loài có tên trong Danh sách Đỏ các loài có nguy cơ tuyệt chủng (IUCN) từ mức sắp bị đe dọa đến cực kỳ nguy cấp.

Chuyên gia Lã Quang Trung, Điều phối viên Bảo tồn thiên nhiên, Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên và phát triển (CCD), trình bày thực trạng bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam tại hội thảo. (Ảnh: PanNature)
Ngoài ra, rừng tự nhiên bị phân mảnh, diện tích sinh cảnh bị thu hẹp, trong khi nguồn lực và nhân sự cho bảo tồn còn hạn chế. Nhiều cán bộ làm công tác này phải kiêm nhiệm, thiếu chuyên môn sâu về quản lý hệ sinh thái.
Cơ chế tài chính chưa phù hợp, chính sách đãi ngộ thấp khiến việc thu hút nhân lực gắn bó lâu dài gặp nhiều khó khăn.
Một thách thức khác là thiếu dữ liệu và thông tin cập nhật về đa dạng sinh học. Việc điều tra, giám sát còn rời rạc, thiếu liên kết giữa các ngành, khiến công tác hoạch định chính sách và quy hoạch bảo tồn chưa đồng bộ.
Từ bảo vệ rừng đến bảo tồn hệ sinh thái
Theo Điều phối viên Bảo tồn thiên nhiên Lã Quang Trung, bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay cần thay đổi tư duy với hướng đi mới, không thể chỉ dừng ở việc “bảo vệ cây rừng”, mà phải chuyển sang quản lý tổng thể hệ sinh thái và loài.
Trong đó, Việt Nam cần quy hoạch xây dựng chính sách tổng thể, tiến hành đồng bộ các giải pháp gồm thiết lập các vùng cấm xâm nhập (no-go zones) trong khu bảo vệ, nhằm bảo vệ nghiêm ngặt các loài cực kỳ nguy cấp như vượn cao-vít, voi, sao la, bò rừng.
Tái hoang dã và phục hồi quần thể loài bằng mô hình nhân giống, thả bán hoang dã, kết hợp hợp tác liên biên giới để duy trì hành lang sinh học tự nhiên.
Xây dựng kế hoạch ứng phó khẩn cấp cho các loài có quần thể duy nhất, ngăn nguy cơ tuyệt chủng do biến đổi khí hậu, dịch bệnh hay săn bắt.

Trong bối cảnh mới, cần thay đổi tư duy từ bảo vệ rừng đơn thuần sang quản lý tổng thể hệ sinh thái và loài, theo các chuyên gia tham gia hội thảo đánh giá. (Ảnh: VĂN THỊNH)
Đặc biệt, các địa phương cần lồng ghép bảo tồn với phát triển sinh kế, thúc đẩy mô hình du lịch sinh thái, du lịch xanh, giúp người dân sống hài hòa và có lợi ích kinh tế từ việc gìn giữ thiên nhiên.
Còn theo bà Hoàng Thị Bình, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Cao Bằng, để bảo tồn hiệu quả, cần trao quyền và nguồn lực cho các tổ chức xã hội và cộng đồng địa phương.
Đây là lực lượng có vai trò đặc biệt trong tuyên truyền, giám sát, tư vấn phản biện, cũng như triển khai các mô hình bảo tồn dựa vào cộng đồng như trồng rừng, khoanh nuôi phục hồi sinh cảnh, phát triển cây dược liệu và kiểm soát sinh vật ngoại lai.
Đồng thời, việc nâng cao nhận thức cộng đồng và đào tạo cán bộ chuyên trách cấp địa phương, tăng cường phối hợp giữa các ngành trong bảo tồn đa dạng sinh học cũng là yếu tố then chốt giúp công tác bảo tồn đi vào chiều sâu, bền vững hơn.

Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, ban ngành và người dân đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học Việt Nam. (Ảnh: VĂN THỊNH)
Các chuyên gia khuyến nghị, trong tương lai, mỗi vườn quốc gia và khu bảo tồn nên đặt mục tiêu tái hoang dã ít nhất một loài động vật hoặc thực vật quý hiếm.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, khuyến khích tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật quốc tế, tăng cường công cụ số và phân tích dữ liệu để quản lý hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, việc đầu tư cho bảo tồn hôm nay chính là đầu tư cho tương lai, một tương lai mà con người và thiên nhiên cùng phát triển bền vững, hài hòa và an toàn.











