Bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống Việt Nam trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế
Sáng 6/3, tại Hà Nội, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam (Bộ VHTTDL) tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia 'Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống Việt Nam trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế'. PGS. TS Tạ Quang Đông, Thứ trưởng Bộ VHTTDL chủ trì Hội thảo.
Nghệ thuật truyền thống minh chứng sự giàu có về di sản văn hóa dân tộc
Hội thảo thu hút đông đảo các nhà quản lý, nhà khoa học, các nghệ sỹ, nghệ nhân tham gia.
Nghệ thuật truyền thống Việt Nam vô cùng phong phú, đa dạng, gồm nhiều loại hình: sân khấu, âm nhạc, múa, mỹ thuật. Ở mỗi một loại hình lại có nhiều thể loại khác nhau như sân khấu có tuồng, chèo, cải lương, múa rối; múa có múa dân gian, múa cung đình, múa tín ngưỡng; âm nhạc có ca trù, hát xoan, bài chòi, quan họ, nhã nhạc, hát văn, xẩm…; mỹ thuật có tranh khắc gỗ dân gian, nghệ thuật chạm khắc đình làng, nghệ thuật điêu khắc tượng tròn, nghệ thuật trang trí kiến trúc, nghệ thuật tranh kính… Sự phong phú, đa dạng nói trên minh chứng sự giàu có về di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển, lưu truyền từ hàng nghìn năm lịch sử.

Thứ trưởng Tạ Quang Đông và Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam Nguyễn Thị Thu Phương chủ trì Hội thảo
Trình bày Báo cáo đề dẫn hội thảo, PGS.TS. Tạ Quang Đông, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch khẳng định: nghệ thuật truyền thống Việt Nam chứa đựng tinh hoa văn hóa dân tộc, phản ánh trí tuệ sáng tạo của con người Việt Nam. Trong lịch sử dân tộc, nghệ thuật truyền thống luôn có vai trò quan trọng đối với quá trình xây dựng và phát triển đất nước, không tách khỏi sự nghiệp "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi".
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường hiện nay, nghệ thuật truyền thống, với tư cách là sản phẩm hàng hóa, được công chúng đón nhận và đem lại nguồn thu không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, nghệ thuật truyền thống nằm trong nguồn thứ ba của sức mạnh mềm văn hóa - di sản văn hóa (cùng với bản sắc dân tộc và thể chế).
Phát biểu đề dẫn Hội thảo, Thứ trưởng Tạ Quang Đông cho rằng, với vai trò to lớn, việc bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống nói riêng và văn hóa truyền thống nói chung là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, được đề cập trong nhiều văn kiện quan trọng. Nhờ những định hướng đúng đắn đó, việc bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay, trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường, nghệ thuật truyền thống đứng trước xu hướng "thương mại hóa", vì mục đích lợi nhuận, phải đối mặt với tình trạng mai một, biến dạng, biến mất... Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế lại dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, văn hóa dân tộc - nội sinh bị "hòa tan" vào văn hóa ngoại sinh. Bởi vậy, bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống càng trở thành vấn đề nổi cộm, cần được chú trọng.

Thứ trưởng Tạ Quang Đông phát biểu đề dẫn Hội thảo
Hơn nữa, thực tiễn bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống Việt Nam còn tồn tại không ít hạn chế, bất cập: thiếu hụt nguồn nhân lực kế cận có chất lượng; chưa phát huy hết vai trò, tiềm năng của nghệ thuật truyền thống đóng góp vào sự phát triển của đất nước; công tác tổ chức thực hiện chủ trương, quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống ở một số lĩnh vực, địa phương còn hạn chế; cơ chế chính sách còn bất cập, đầu tư chưa tương xứng với yêu cầu bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống; công chúng am hiểu và yêu thích nghệ thuật truyền thống ngày càng thưa thớt....
Để vừa phát triển kinh tế đất nước, vừa mở rộng cánh cửa hội nhập với thế giới nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa - hồn cốt dân tộc, Hội thảo khoa học quốc gia "Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống Việt Nam trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế" tạo diễn đàn trao đổi, thảo luận, lấy ý kiến của các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ, nghệ nhân… về các vấn đề có liên quan.

Toàn cảnh Hội thảo
Đồng bộ các giải pháp bảo tồn, phát huy
Tại Hội thảo, các nhà quản lý, chuyên gia, nhà nghiên cứu tập trung thảo luận các vấn đề: cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống Việt Nam; thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị các loại hình nghệ thuật truyền thống Việt Nam hiện nay như: nhã nhạc cung đình Huế, nghệ thuật tuồng, chèo, hát xoan… Các đại biểu cũng đưa ra kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống của các quốc gia trên thế giới và những bài học cho Việt Nam; giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống Việt Nam trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Quốc Hùng, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam chia sẻ về giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật trong cộng đồng và khai thác di sản văn hóa phi vật thể trong các di tích.

Biểu diễn di sản điệu múa Con đĩ đánh bồng tại Hội thảo
Tiến sỹ, Nghệ sỹ Nhân dân Lê Tuấn Cường, Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam đề xuất bảo tồn bằng chính những vở diễn truyền thống; bảo tồn trong các nhà hát, đơn vị nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực; tăng cường đầu tư dàn dựng những tác phẩm có chất lượng và quảng bá xúc tiến du lịch giới thiệu sản phẩm...
Còn Thạc sỹ Trần Văn Hiếu, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam đề xuất ứng dụng công nghệ số như là các gợi ý hữu ích nhằm lưu trữ, ghi chép và truyền dạy nghệ thuật truyền thống, đồng thời, công nghệ cũng là công cụ quảng bá và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống trong đời sống hiện đại, đưa nghệ thuật truyền thống trở nên gần gũi hơn với công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ…
Nhiều tác giả đã đề xuất các giải pháp liên quan đến xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách; về nâng cao nhận thức của cộng đồng; đa dạng hóa không gian biểu diễn; giảm thiểu những tác động của kinh tế - xã hội đối với các hoạt động bảo tồn; ưu đãi thỏa đáng với nghệ sĩ, nghệ nhân; lồng ghép bảo tồn với các chương trình phát triển kinh tế, xã hội địa phương; hỗ trợ tìm điểm diễn…
Về chính sách, TS Trần Thị Minh Thu cho rằng: chính sách hiện nay còn tồn tại không ít bất cập như còn thiếu vắng chính sách đầu tư, quan tâm phát triển công chúng của nghệ thuật truyền thống; thiếu định hướng bảo tồn đúng cách; còn tồn tại sự bất bình đẳng; chế độ, chính sách đãi ngộ nghệ nhân, nghệ sĩ và lớp trẻ còn hạn chế; việc sáp nhập giúp bộ máy gọn nhẹ, tinh giản biên chế, nhưng lại làm nghệ thuật biểu diễn truyền thống bị mai một; chính sách tự chủ, thực hiện công nghiệp văn hóa trong cơ chế thị trường khiến công tác bảo tồn bị coi nhẹ và giá trị di sản bị phá vỡ… Những tồn tại này đòi hỏi chính sách Nhà nước cần được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.

Biểu diễn nghệ thuật Chèo tại Hội thảo
Về nguồn nhân lực, TS Nguyễn Thị Hồng Nhung cho hay, thiếu hụt nguồn nhân lực là một trong những lý do khiến các loại hình nghệ thuật truyền thống không giữ được vị trí vốn có trong đời sống xã hội. Hiện nay, việc đào tạo nguồn nhân lực lĩnh vực nghệ thuật truyền thống trên toàn quốc đang bị thu hẹp về quy mô, giảm về chất lượng. Nhiều ngành, chuyên ngành không tuyển được học sinh. Trong bối cảnh khó khăn đó, việc tuyển sinh, đào tạo, giữ chân nghệ sĩ trẻ lại gặp không ít khó khăn. Câu chuyện tạo nguồn đội ngũ kế cận của nghệ thuật truyền thống trong xã hội đương đại thời gian qua luôn là bài toán khó đối với các nghệ sĩ cũng như các nhà quản lý.
Kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Tạ Quang Đông cho rằng, tác động mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã khiến nghệ thuật truyền thống càng dễ bị tổn thương, bị mai một, biến dạng, biến mất... đi cùng nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc vô cùng sâu sắc.
"Các bài trình bày và thảo luận ở Hội thảo đã đưa ra những vấn đề khoa học quan trọng về thực trạng và giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. Những thành quả nghiên cứu này đóng góp thiết thực trong khoa học nghiên cứu liên ngành và trong thực tiễn bảo vệ, phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam" - Thứ trưởng Tạ Quang Đông nhấn mạnh./.