Bảo vệ rừng từ sớm, từ xa bằng khoa học công nghệ
Giữa rừng thông ở khu vực giáp biên tỉnh Lạng Sơn, cứ đều đặn mỗi tuần, các cán bộ dự án lại băng rừng, lội suối để tiếp cận những điểm đặt bẫy côn trùng, thu thập những mẫu vật nhỏ bé là các loài côn trùng gây hại đang âm thầm tồn tại trong rừng - manh mối quan trọng để bảo vệ sức khỏe rừng từ sớm, từ xa.

Những mẫu côn trùng hại gỗ được các nhà khoa học thu thập qua bẫy để phục vụ nghiên cứu bảo vệ rừng. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Nguy cơ từ các loài côn trùng ngoại lai xâm hại
Các loài côn trùng ngoại lai xâm hại đang trở thành mối đe dọa ngày càng lớn đối với sức khỏe rừng và sinh kế, đặc biệt trong bối cảnh thương mại toàn cầu gia tăng và biến đổi khí hậu làm tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Theo thống kê của các nhà khoa học, trên phạm vi toàn cầu, mỗi năm sâu bệnh gây thiệt hại khoảng 35 triệu ha rừng, đặt ra thách thức nghiêm trọng đối với quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng.
Dự án khu vực “Xây dựng mạng lưới an toàn sinh học và sức khỏe rừng ở khu vực Đông Nam Á” được triển khai dưới sự hỗ trợ của Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Australia (ACIAR), nhằm tăng cường năng lực giám sát, phát hiện sớm và ứng phó với sâu bệnh rừng tại Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia, thông qua việc kết nối các cơ quan quản lý, tổ chức nghiên cứu và khu vực tư nhân trong khu vực.
Một hợp phần quan trọng của dự án là chương trình Bẫy giám sát tại các điểm nguy cơ cao (HRSS), nhằm phát hiện sớm các loài côn trùng có nguy cơ xâm nhập tại các cửa ngõ quan trọng như sân bay, cảng biển và khu vực biên giới. Tại Việt Nam, hệ thống giám sát được triển khai tại 3 địa điểm gồm: Ga hàng hóa Sân bay quốc tế Nội Bài, chợ gỗ Hải Phòng gần cảng Đình Vũ và rừng thông tại tỉnh Lạng Sơn.

Tiến sĩ Đào Ngọc Quang, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo vệ rừng, Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Theo Tiến sĩ Đào Ngọc Quang, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo vệ rừng (FPRC), Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam, trung tâm hiện là đơn vị thực hiện chính tại Việt Nam của dự án do ACIAR tài trợ, triển khai từ năm 2022 tại 6 quốc gia Đông Nam Á.
Tiến sĩ Đào Ngọc Quang cho biết, dự án hướng tới 2 mục tiêu chính: Xây dựng mạng lưới an toàn sinh học và sức khỏe rừng nhằm nâng cao năng lực sẵn sàng trước nguy cơ sinh vật ngoại lai xâm hại; đồng thời tăng cường năng lực chuyên môn cho các cơ quan, cán bộ kỹ thuật tham gia.
Theo Tiến sĩ Quang, sinh vật ngoại lai là những loài không có nguồn gốc bản địa, du nhập từ khu vực khác. Khi xâm nhập vào môi trường mới, nếu không thích nghi được thì sẽ tự đào thải; nhưng trong trường hợp không có thiên địch, ít cạnh tranh sinh học và phù hợp điều kiện sinh thái, loài ngoại lai có thể sinh sôi nhanh, phá vỡ cân bằng sinh thái bản địa và trở thành loài ngoại lai xâm hại, vượt khỏi khả năng kiểm soát của con người. Đối với lĩnh vực bảo vệ rừng, dự án tập trung chủ yếu vào nhóm côn trùng và sinh vật gây hại cây rừng.
Tiến sĩ Đào Ngọc Quang phân tích, các loài ngoại lai xâm hại có thể du nhập theo 3 con đường chính. Thứ nhất là con đường tự nhiên, thông qua gió, bão, dòng chảy mang theo bào tử nấm hoặc côn trùng nhỏ. Thứ 2 là con đường do con người chủ đích, như nhập khẩu sinh vật phục vụ nghiên cứu hoặc phòng trừ sinh học, nhưng nếu kiểm soát không chặt chẽ có thể phát sinh rủi ro mới. Thứ 3 là con đường không chủ đích do hoạt động thương mại và đi lại của con người, khi sâu bệnh, côn trùng hoặc mầm bệnh ẩn trong hàng hóa, bao bì, gỗ nguyên liệu hoặc thậm chí quần áo, hành lý.
Từ thực tế đó, dự án xác định cần ưu tiên giám sát tại các khu vực có nguy cơ xâm nhập cao, nơi sinh vật ngoại lai có khả năng xuất hiện đầu tiên. Tại Việt Nam, 3 địa điểm được lựa chọn gồm khu vực sân bay Nội Bài, nơi tập trung lượng lớn hàng hóa và hành khách quốc tế; khu bãi tập kết gỗ gần cảng Đình Vũ (Hải Phòng); và khu rừng trồng gần biên giới ở tỉnh Lạng Sơn. Riêng điểm rừng biên giới được phía Việt Nam đề xuất bổ sung và được chủ dự án chấp thuận, do nguy cơ xâm nhập qua biên giới tự nhiên là hiện hữu.

Một trong những chiếc bẫy côn trùng của dự án đặt tại khu vực rừng thông gần biên giới ở tỉnh Lạng Sơn. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Trong giai đoạn 2023-2024, nhóm nghiên cứu đã thu thập khoảng gần 3.000 mẫu côn trùng thuộc 40 loài khác nhau, bao gồm mọt hại vỏ cây, mọt mang nấm và xén tóc. Dữ liệu thu thập được sử dụng để xây dựng danh mục dịch hại, phục vụ công tác giám sát, cảnh báo sớm và xây dựng chính sách về an toàn sinh học rừng.
Riêng khu vực rừng biên giới Lạng Sơn, dù mới triển khai trong thời gian ngắn, số lượng mẫu thu được chiếm gần một nửa tổng số mẫu, cho thấy nguy cơ xâm nhập dịch hại là đáng lưu ý. Công tác giám định đòi hỏi nhiều bước phức tạp từ phân tích hình thái đến xét nghiệm ADN; hiện mới xác định được khoảng 40 loài, trong đó có những loài cần tiếp tục nghiên cứu để đánh giá mức độ xâm hại.
“Đãi gỗ tìm vàng” giữa rừng biên giới
Mỗi tuần một lần, những cán bộ dự án lại khoác balô, vượt dốc cao, địa hình hiểm trở để vào rừng trồng thông nơi biên giới Lạng Sơn. Đường đi xa, thời tiết thất thường, nhưng từng chiếc bẫy vẫn được kiểm tra đúng quy trình, từng mẫu côn trùng nhỏ li ti vẫn được thu gom cẩn trọng.

Chị Nguyễn Hoài Thu tỉ mỉ ghi lại thông tin về các mẫu côn trùng thu thập được qua bẫy. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Chia sẻ về những khó khăn trong quá trình triển khai, chị Nguyễn Hoài Thu, cán bộ dự án cho biết, trở ngại lớn nhất chính là điều kiện đi lại. Các điểm đặt bẫy đều nằm ở khu vực xa, phải leo dốc, di chuyển vất vả, vì vậy luôn cần có người dẫn đường là kiểm lâm hoặc người dân địa phương am hiểu địa hình đi cùng.
Theo chị Thu, do cán bộ dự án không thường trực tại rừng, nên việc quản lý điểm bẫy cũng cần có người hỗ trợ theo dõi. Nếu không có sự phối hợp chặt chẽ, bẫy có thể bị tác động bởi người qua lại, thậm chí bị thu dọn trước khi đến kỳ kiểm tra, ảnh hưởng đến việc theo dõi liên tục.
Bên cạnh khó khăn về địa bàn, công tác phân loại mẫu cũng mất rất nhiều thời gian do số lượng loài lớn, hình thái khá giống nhau, đòi hỏi phải quan sát kỹ từng chi tiết nhỏ và đối chiếu cẩn thận mới có thể nhận diện chính xác.
Tại Lạng Sơn, các bẫy giám sát được đặt trong rừng trồng thông tại khu vực Đồn Biên phòng Na Hình và rừng hộ gia đình ở thôn Bản Ánh, xã Thụy Hùng. Bẫy được kiểm tra và thu mẫu định kỳ mỗi tuần một lần kể từ tháng 4/2024.

Một trong những món “vàng” được các nhà côn trùng học thu thập qua bẫy. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Công việc âm thầm ấy được những cán bộ dự án ví von vui như “đãi gỗ tìm vàng”, nhưng “vàng” ở đây lại không phải kim loại quý mà là những loài côn trùng gây hại - manh mối quan trọng để bảo vệ sức khỏe rừng từ sớm, từ xa.
Theo chân các cán bộ dự án xuống thực địa, chúng tôi được chứng kiến nhiều bẫy côn trùng được treo đồng thời sâu trong rừng thông. Theo Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà, cán bộ dự án, những chiếc bẫy này sử dụng nhiều loại mồi dẫn dụ khác nhau, nhằm thu hút các nhóm côn trùng như xén tóc, mọt hại vỏ, mọt mang nấm.

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà tiến hành thu thập các mẫu vật từ bẫy côn trùng. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Theo đó, mỗi bẫy panel được treo đồng thời 3 loại mồi nhử gồm Cerambycid mix lure, alpha-pinene và ethanol 99%, nhằm dẫn dụ các nhóm côn trùng. Dung dịch lưu giữ mẫu là glycerol pha loãng với nước theo tỷ lệ 50/50.
Bẫy được treo ở vị trí thông thoáng, tránh cây bụi cản trở hướng bay của côn trùng, với độ cao khoảng 1,5m so với mặt đất; mỗi khay chứa khoảng 600ml dung dịch lưu giữ.

Các loại mồi dẫn dụ côn trùng được đặt trong bẫy. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Tiến sĩ Trần Xuân Hưng, cán bộ Bộ môn Côn trùng rừng, Trung tâm Nghiên cứu bảo vệ rừng, (Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam) chia sẻ, quy trình kiểm tra bẫy được thực hiện chặt chẽ. Khi thu mẫu, khay dung dịch được tháo ra, dung dịch được đổ qua vải lọc và rây để bảo đảm không bỏ sót bất kỳ mẫu côn trùng nào, kể cả những cá thể rất nhỏ.
Khay được rửa sạch, bẫy được lau chùi để giữ bề mặt trơn, bảo đảm hiệu quả dẫn dụ. Mẫu sau khi lọc được gói trong vải, cho vào túi ni-lông hoặc lọ nhựa, ghi đầy đủ thông tin về địa điểm, thời gian, người thu và số hiệu bẫy, sau đó bảo quản trong thùng lạnh và đưa về phòng thí nghiệm lưu giữ trong tủ đá nhằm tránh mất màu, biến dạng mẫu. Dung dịch lưu giữ không được tái sử dụng, bắt buộc thay mới sau mỗi lần thu.
Sau một tuần, mẫu được thu về. Các mẫu lớn có thể phân loại tương đối nhanh, nhưng với các loài mọt nhỏ, cán bộ phải soi dưới kính hiển vi, quan sát chi tiết hình thái như kích thước, vân cánh, râu, chân ngực.

Tiến sĩ Trần Xuân Hưng chia sẻ về phương thức đặt bẫy. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Những mẫu khó giám định sẽ được chụp ảnh gửi chuyên gia nước ngoài, thậm chí tách ADN để xác định chính xác loài, từ đó đối chiếu với danh lục côn trùng hiện có ở Việt Nam nhằm nhận diện loài ngoại lai xâm hại.
Nhìn lại những chuyến đi ròng rã giữa rừng sâu, với công việc lặp đi lặp lại là treo bẫy, thu mẫu, ghi chép và mang từng cá thể côn trùng về phòng thí nghiệm, anh Hưng chia sẻ rằng, nghề của mình đôi khi “chẳng khác nào đãi gỗ tìm vàng”.
Nhưng “vàng” ở đây theo Tiến sĩ Hưng không phải là thứ nhìn thấy ngay, mà là việc phát hiện sớm những loài côn trùng ngoại lai gây hại đang âm thầm xâm nhập rừng. Từ những mẫu vật nhỏ bé ấy, các nhà khoa học mới có cơ sở để cảnh báo nguy cơ, nghiên cứu biện pháp phòng trừ, góp phần bảo vệ gỗ, bảo vệ rừng và sinh kế lâu dài.
Mạng lưới an toàn sinh học từ rừng biên giới
Theo đồng chí Hoàng Ngọc Khôi, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm khu vực Văn Lãng, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lạng Sơn, việc nghiên cứu và phát hiện sớm các loài sâu bệnh, đặc biệt là các loài ngoại lai xâm hại, có ý nghĩa rất lớn đối với công tác bảo vệ rừng.
Thực tế cho thấy, thời gian qua, một số loài châu chấu tre, châu chấu vàng từ bên kia biên giới xâm nhập đã gây hại nghiêm trọng cho rừng trồng tại địa bàn; khi đã phát triển mạnh thì các biện pháp phun trừ thông thường hầu như không còn hiệu quả.

Đồng chí Hoàng Ngọc Khôi, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm khu vực Văn Lãng, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lạng Sơn. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Đồng chí Hoàng Ngọc Khôi khẳng định, việc phát hiện sớm các loài ngoại lai xâm hại sẽ tạo cơ sở khoa học cho nghiên cứu biện pháp phòng trừ hiệu quả hơn, phục vụ lâu dài cho lâm nghiệp và góp phần bảo vệ rừng trồng trên địa bàn.
Dù dự án còn mới, kết quả nghiên cứu chưa hoàn thiện, song địa phương đánh giá cao ý nghĩa của việc đặt bẫy, giám sát và xây dựng dữ liệu ban đầu, đồng thời tích cực hỗ trợ về địa điểm, dẫn đường và bảo vệ hiện trường.
Tiến sĩ Đào Ngọc Quang cho biết, kết quả cuối cùng của dự án là xây dựng danh mục các loài côn trùng thu thập được, xác định loài nào là ngoại lai, loài nào có khả năng trở thành ngoại lai xâm hại, từ đó làm cơ sở khoa học để đề xuất các khuyến nghị quản lý. Tuy nhiên, để đánh giá đầy đủ mức độ gây hại, cần thêm các nghiên cứu về đặc điểm sinh học, khả năng thích nghi và tác động lâu dài của từng loài.
Theo Tiến sĩ Quang, các nghiên cứu quốc tế cho thấy đầu tư cho biện pháp phòng ngừa, giám sát sớm các loài sâu bệnh hại rừng mang lại hiệu quả kinh tế rất cao, với tỷ lệ lợi ích-chi phí lên tới 30:1. Trong khi đó, nếu để sinh vật ngoại lai phát triển thành dịch, chi phí ứng phó sẽ rất lớn và kéo dài.
Tại Việt Nam, chi phí triển khai giám sát trong khuôn khổ dự án hiện chỉ ở mức khoảng 80.000 đô-la Australia mỗi năm cho cả 3 địa điểm, thấp hơn rất nhiều so với chi phí khắc phục hậu quả khi dịch hại bùng phát.

Các mẫu côn trùng nhỏ bé này đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu bảo vệ sức khỏe rừng và sinh kế. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Tiến sĩ Đào Ngọc Quang nhấn mạnh, việc giám sát an toàn sinh học rừng cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và mở rộng về không gian.
Hiện nay, các điểm giám sát mới chỉ tập trung ở một số khu vực phía bắc, trong khi Việt Nam có đường biên giới đất liền dài, bờ biển dài và nhiều cảng biển lớn trải khắp cả nước. Việc mở rộng mạng lưới giám sát và duy trì cập nhật hằng năm sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, bảo vệ sức khỏe rừng và sinh kế lâu dài.
Đánh giá về kết quả dự án, Đại sứ Australia tại Việt Nam, bà Gillian Bird cho hay, trong 32 năm qua, thông qua Trung tâm ACIAR, Australia đã đầu tư trong lĩnh vực nghiên cứu nông nghiệp để hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế, với hơn 260 dự án nghiên cứu có đối tác Việt Nam tham gia.
Dự án an toàn sinh học rừng hỗ trợ các nhà nghiên cứu của Việt Nam xây dựng các bằng chứng khoa học cần thiết, giúp bảo vệ giá trị kinh tế và sức khỏe của các khu rừng trồng trước nguy cơ bị các loài ngoại lai xâm hại.
“Thật tuyệt vời khi thấy dự án đang hỗ trợ xây dựng một mạng lưới hợp tác trong lĩnh vực an toàn sinh học rừng trong khu vực, nơi các nhà khoa học Việt Nam chia sẻ kết quả nghiên cứu và hỗ trợ xây dựng năng lực chuyên môn cho các đồng nghiệp ở Campuchia, Lào, Thái Lan, Malaysia và Indonesia”, Đại sứ Gillian Bird nêu rõ.
Những bước chân lặng lẽ giữa rừng sâu trong hành trình “đãi gỗ tìm vàng” đang góp phần đặt nền móng cho an toàn sinh học rừng. Khi “vàng” được tìm thấy kịp thời, rừng được bảo vệ từ gốc, từ sớm, và những cánh rừng Việt Nam sẽ có thêm cơ hội đứng vững trước các mối đe dọa ngày càng phức tạp của thiên nhiên và con người.
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/bao-ve-rung-tu-som-tu-xa-bang-khoa-hoc-cong-nghe-post930866.html












