Bảo vệ thương hiệu hàng hóa xuất khẩu - bảo vệ 'tài sản vô hình'
Câu chuyện ồn ào gạo ST25 của Việt Nam bị doanh nghiệp (DN) nước ngoài đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thương mại (trademark) độc quyền tại Mỹ, dù còn gây tranh cãi về tính hợp pháp, một lần nữa hâm nóng chủ đề bảo hộ thương hiệu quốc gia.
Thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ KH&CN (Cục SHTT) cho thấy, hiện nay, các nhãn hiệu đăng ký nội địa là khoảng 50.000 đơn/ năm, nhưng chỉ có khoảng 280 đơn yêu cầu đăng ký quốc tế. Con số khá khiêm tốn khiến đặt ra câu hỏi: Phải chăng DN Việt chưa hiểu về vai trò của nhãn hiệu sản phẩm nói riêng, sở hữu trí tuệ nói chung trong hoạt động xuất khẩu?
Chia sẻ về tình huống thực tế của chính DN mình khi đăng ký nhãn hiệu tại nước ngoài, một đại diện DN xuất khẩu cà phê cho biết, sau khi xuất một vài đơn hàng đầu tiên sang thị trường Hàn Quốc, DN tiến hành nộp đơn đăng ký Nhãn hiệu ở nước sở tại thì được cơ quan sở hữu trí tuệ Hàn Quốc thông báo từ chối. Do nhãn hiệu này đã được đăng ký tại nước từ trước đó.
Người đăng ký nhãn hiệu của DN lại chính là đối tác phân phối của DN tại Hàn Quốc. Sau đó, DN phải thương thảo với đối tác để có quyền đăng ký nhãn hiệu của mình tại Hàn Quốc.
Các chuyên gia về sở hữu trí tuệ nhận định, DN đã rất may mắn trong tình huống này khi nhận được thiện chí từ phía đối tác để có thể nhanh chóng lấy lại nhãn hiệu của chính mình. Trên thực tế, thời gian qua, nhiều vụ việc "kinh điển" vẫn thường được các luật sư và các DN đề cập tới như những bài học về hậu quả của việc chưa nhận thức đầy đủ và lơ là trong bảo vệ tài sản trí tuệ của DN.
Doanh nghiệp chưa quan tâm đúng mức
Câu chuyện thương hiệu gạo ST25 vừa qua, gợi nhớ đến những cuộc kiện tụng đòi lại thương quyền từ "bà già đeo kiếng" Phạm Thị Tỏ của kẹo dừa Bến Tre; võng xếp Duy Lợi; nhãn hiệu Ðức Thành – Vinamit; cà phê Buôn Ma Thuột; nước mắm Phú Quốc...
Trong thực tế, chúng ta cũng đã có những chiến thắng trong cuộc đấu tranh bảo vệ thương hiệu như chuyện bà Ba Tỏ - chủ thương hiệu kẹo dừa Bến Tre thắng kiện ở Trung Quốc. Tuy phải hao tiền, tốn sức, rất gian nan, nhưng bà Ba Tỏ đã giành lại danh xưng cho đứa con tinh thần của xứ dừa.
Kinh nghiệm cho việc "đăng ký nhãn hiệu bao vây", tức đăng ký ngay cả những thị trường tiềm năng. chi phí rẻ hơn việc kiện tụng giành lại tài sản. Cũng đã có DN chủ động liên kết với các tổ chức chuyên nghiệp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu độc quyền để tránh cảnh "mất bò mới lo làm chuồng". Nhưng không phải đơn vị nào, nhất là các DN trong ngành nông sản, sẵn sàng và đủ sức trong "cuộc chiến không tiếng súng này".
Tuy nhiên, một nguyên tắc rất quan trọng mà các DN cần biết, việc bảo hộ nhãn hiệu mang tính lãnh thổ. Tức việc nhãn hiệu của DN được bảo hộ ở Việt Nam, không đồng nghĩa với việc nhãn hiệu cũng được bảo hộ ở Mỹ, Australia hay các nước khác. Đó chính là lý do DN cần tính đến việc đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài nếu muốn xây dựng và phát triển thương hiệu ở nước ngoài.
Hiện nay, đã có nhiều DN Việt Nam ý thức được vai trò của tài sản trí tuệ, thực hiện đăng ký bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp tại thị trường trong nước. Nhưng số lượng DN thực hiện việc này ở nước ngoài còn rất ít. Ngay cả khi các sản phẩm của DN Việt Nam đã có mặt ở nhiều thị trường trọng điểm trên thế giới.
Các rào cản dẫn đến DN Việt còn đang chần chừ không đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài. Đầu tiên là do nhận thức của các chủ DN. Mặc dù đã có sự chuyển biến hơn trước nhưng nhiều chủ DN vẫn cho rằng DN của mình nhỏ, bán sản phẩm sang nước ngoài thông qua một nhà nhập khẩu thì trách nhiệm ở nước ngoài là của nhà nhập khẩu, ít quan tâm đến trách nhiệm cũng như bảo vệ quyền lợi của chính mình.
Rào cản thứ hai là thủ tục ở các thị trường khác nhau cũng tương đối khác nhau. Khi DN gặp phải nào cản về pháp lý, ngôn ngữ sẽ dẫn đến chán nản. Bên cạnh đó, kinh phí đăng ký không rẻ ở một số thị trường cũng là rào cản với DN nhỏ và siêu nhỏ.
Trách nhiệm bảo vệ "tài sản vô hình"
Thương hiệu (tradebrand) hay nhãn hiệu (trademark) được hiểu là một biểu tượng, thông điệp về giá trị cốt lõi, một sản phẩm, dịch vụ. Thương hiệu mang trong nó nhiều yếu tố tổng hợp từ kinh tế, văn hóa, xã hội đến truyền thống, lịch sử và hiện tại, được chuyển tải đến người tiêu dùng bằng thông tin, truyền thông, thương mại, được khách hàng ưa chuộng bằng niềm tin giá trị. Ngày nay, cùng với giá trị văn hóa cốt lõi, yếu tố công nghệ, đặc biệt là yếu tố pháp lý càng được chú ý hơn, nên nhiều thương hiệu (tradebrand) nổi tiếng luôn được quan tâm đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu (trademark).
Cục SHTT cũng khuyến cáo, khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu, một trong số những yếu tố quan trọng nhất là phải hiểu được các quy định về bảo hộ quyền SHTT ở thị trường xuất khẩu, bởi trước khi xuất khẩu các DN ít nhất phải bảo đảm rằng sản phẩm của mình tuân thủ các quy định về bảo hộ quyền SHTT ở thị trường xuất khẩu và không xâm phạm quyền SHTT của người khác trên thị trường đó.
Trách nhiệm bảo vệ "Thương hiệu - Tài sản vô hình" trước tiên thuộc về DN, nhưng cũng không thể để họ tự bơi trong điều kiện thiếu kiến thức pháp lý và năng lực tiếp cận thị trường nước ngoài hạn chế. Theo đó, cần hỗ trợ thông tin, trợ giúp pháp lý khi DN rơi vào trường hợp tranh tụng bằng các phương thức phù hợp. Nhưng điều quan trọng hơn là nâng cao năng lực tự bảo vệ mình của chủ thương hiệu.
Cuộc chiến thương hiệu trong bối cảnh hội nhập rộng mở và cạnh tranh quyết liệt vẫn đang là thách thức cho DN nội, hàng nội. Các DN Việt, nhất là các thương hiệu nông sản nổi tiếng quốc gia, rất cần được trợ lực từ các cơ quan quản lý, hiệp hội và cộng đồng bằng các công cụ pháp lý đúng luật chơi thị trường mà Việt Nam đã cam kết trong WTO, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nhà nước không thể làm thay hay hỗ trợ trực tiếp cho DN, nhưng cũng cần hỗ trợ để DN không chông chênh trong cuộc chiến cam go này.