Bắt buộc phá dỡ nhà ở trong một số trường hợp
Nhà ở bị phá dỡ là điều chủ sở hữu không mong muốn. Vậy có phải chỉ khi xây dựng trái phép mới bị phá dỡ?
Những trường hợp bắt buộc phải phá dỡ nhà ở
Theo Điều 92 Luật Nhà ở năm 2014, nhà ở hư hỏng nặng, có nguy cơ sập đổ, không bảo đảm an toàn đã có kết luận của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh hoặc trong tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai sẽ bắt buộc phải phá dỡ.
Bên cạnh đó, chung cư bị hư hỏng chưa thuộc diện bị phá dỡ nhưng nằm trong khu vực phải thực hiện cải tạo, xây dựng đồng bộ với khu nhà ở thuộc diện bị phá dỡ cũng bắt buộc phải tháo dỡ.
Ngoài ra, nhà ở thuộc diện giải tỏa để thu hồi đất theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà ở xây dựng trong khu vực cấm xây dựng hoặc xây dựng trên đất không phải là đất ở cũng là những trường hợp bắt buộc phải phá dỡ.
Trường hợp cuối cùng là nhà ở thuộc diện phải phá dỡ theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Trách nhiệm phá dỡ nhà ở
Theo Điều 93 Luật Nhà ở năm 2014, chủ sở hữu nhà ở hoặc người đang quản lý, sử dụng nhà ở có trách nhiệm phá dỡ nhà ở.
Trường hợp phải giải tỏa nhà ở để xây dựng lại nhà ở mới hoặc công trình khác thì chủ đầu tư công trình có trách nhiệm phá dỡ nhà ở.
Chủ sở hữu nhà ở tự thực hiện việc phá dỡ nhà ở nếu có đủ năng lực theo quy định hoặc thuê tổ chức, cá nhân có năng lực về xây dựng phá dỡ.
Trường hợp phá dỡ nhà chung cư để cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mới phải thực hiện theo quy định tại Mục 2 Chương VII Luật Nhà ở năm 2014.
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc phá dỡ nhà ở trên địa bàn.
Những trường hợp bắt buộc phải phá dỡ công trình xây dựng
Theo quy định, công trình xây dựng cũng bắt buộc phải phá dỡ trong một số trường hợp.
Công trình xây dựng sẽ bị phá dỡ để giải phóng mặt bằng xây dựng công trình mới hoặc công trình xây dựng tạm.
Ngoài ra, bắt buộc phá dỡ các công trình có nguy cơ sụp đổ; công trình xây dựng trong khu vực cấm xây dựng: công trình trong khu vực cấm xây dựng; công trình lấn chiếm hành lang bảo vệ công trình quốc phòng, an ninh, giao thông, thủy lợi, đê điều, năng lượng, khu di tích lịch sử - văn hóa và khu vực bảo vệ công trình khác theo quy định; công trình ở khu vực đã được cảnh báo về nguy cơ lở đất, lũ quét, lũ ống (trừ công trình xây dựng để khắc phục những hiện tượng này); công trình xây dựng sai quy hoạch, không có giấy phép xây dựng hoặc xây dựng sai với nội dung quy định trong giấy phép xây dựng.
Những công trình xây dựng lấn chiếm đất công, đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân; công trình xây dựng sai với thiết kế xây dựng được phê duyệt đối với trường hợp được miễn giấy phép xây dựng cũng bắt buộc phải phá dỡ.
Bên cạnh đó, nhằm kịp thời phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, các nhiệm vụ cấp bách để bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, một số công trình bắt buộc phải phá dỡ khẩn cấp theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhà ở riêng lẻ có nhu cầu phá dỡ để xây dựng mới.
Trách nhiệm của các bên trong việc phá dỡ công trình xây dựng
Chủ đầu tư, chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng công trình hoặc người được giao nhiệm vụ chủ trì phá dỡ công trình có trách nhiệm tự thực hiện nếu có đủ điều kiện năng lực hoặc thuê tổ chức tư vấn có năng lực, kinh nghiệm để thực hiện lập, thẩm tra thiết kế phương án, giải pháp phá dỡ công trình xây dựng và thực hiện thi công phá dỡ công trình xây dựng; chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Nhà thầu được giao thực hiện việc phá dỡ công trình có trách nhiệm lập biện pháp thi công phá dỡ công trình phù hợp với phương án, giải pháp phá dỡ được phê duyệt; thực hiện thi công phá dỡ công trình theo đúng biện pháp thi công và quyết định phá dỡ hoặc quyết định cưỡng chế phá dỡ công trình xây dựng (nếu có); thực hiện theo dõi, quan trắc công trình; bảo đảm an toàn cho con người, tài sản, công trình và các công trình lân cận; chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Người có thẩm quyền quyết định phá dỡ công trình chịu trách nhiệm trước pháp luật về hậu quả do không ban hành quyết định, ban hành quyết định không kịp thời hoặc ban hành quyết định trái với quy định của pháp luật.
Tổ chức, cá nhân sở hữu hoặc đang sử dụng công trình thuộc trường hợp phải phá dỡ phải chấp hành quyết định phá dỡ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; trường hợp không chấp hành thì bị cưỡng chế và chịu mọi chi phí cho việc phá dỡ.