Bến làng

Làng khoảng chừng gần trăm nóc nhà, đa số nhà tranh vách đất, số nhà khá giả xây tường lợp ngói đếm không hết năm đầu ngón tay. Con đường nhỏ chạy qua làng cũng là bờ con sông, làng nhỏ, dòng sông trước làng cũng nhỏ có cảm giác dòng sông mảnh mai như tấm khăn mỏng mảnh khoác trên vai thiếu nữ tuổi dậy thì chỉ đủ làm duyên, làm dáng. Nhỏ nhoi vậy, nhưng khi dòng sông vào mùa bão lũ thì làng cũng ngập tràn. Có năm lụt lớn nước lên gần chấm mái gianh, nhà nhà phải làm sàn gác những đồ thiết yếu, người lội trong nước, nhà này sang nhà kia đều đi bằng thuyền câu. Dòng sông, xóm làng cũng như con người vậy, đều trải qua những bước thăng trầm của thời gian, của số phận. Đó là bến sông quê trong cảnh thanh bình của những ngày xa xưa.

Minh họa: Hà hiếu

Minh họa: Hà hiếu

Nói là xa xưa, vì khoảng thời gian từ những năm 80 của thế kỷ XX trở về trước làng có những bến đá, có những cây sung, cây bàng cổ thụ rủ bóng xuống dòng sông, bến nước. Dân làng tôi còn quần nâu áo gụ, cuộc sống thanh bần, đạm bạc, canh nông thuần chất; giữa trưa, nửa đêm vọng tiếng gà gáy, chó sủa. Bến nước trước làng chẳng biết có tự bao giờ mà những viên đá nhẵn thín. Người già trong làng kể rằng: Bến đá làng tôi đẹp nhất vùng, thuở làng còn chưa có người đến ở, đêm trăng thanh thường có những cô gái từ đâu đến tắm, vùng vẫy trêu chọc nhau, nhưng rồi đến cuối canh ba lại đi đâu hết? Các cụ bảo đấy là các nàng tiên từ đỉnh núi Bích Đào về! Cư dân các nơi thấy đất làng đẹp nên đến sinh cơ lập nghiệp, làng dần trở nên đông đúc, bến làng cũng dần đông vui, tình tứ. Những trưa mùa hè nóng nực mọi người thường ra bến đá ngồi hóng mát, gió từ mặt nước sông đưa lên thoang thoảng mùi hương của những bông hoa lộc vừng từ trên thượng nguồn xuôi về. Các em bé gái lội xuống bến đón vớt những bông hoa theo dòng nước quẩn quay tròn đậu vào bến cứ như một mâm hoa mà thượng nguồn gửi về dâng tặng bến bờ. Những bông lộc vừng được vớt lên gom lại trên mặt đá thạch anh trắng muốt, các em khéo léo xâu những bông hoa thành chuỗi dài rồi buộc thành vòng hoa đeo vào cổ. Nhìn các bé gái có tràng hoa lộc vừng trên cổ, tôi lại có sự suy tư lãng mạn nhớ chuyện các nàng tiên ngày xưa về tắm bến làng... Có hay không trước mắt tôi các nàng tiên ấy tỏ mờ trong bóng dáng các em thơ?. Tôi biết rằng chuyện các nàng tiên thuở xưa chỉ là huyền thoại, truyền thuyết... để lại cho hậu thế như chúng tôi được thừa hưởng.

Còn các bé trai ngụp lặn dưới sông, lúc chúng lặn trong nước tìm nhau, lúc “trồng cây chuối” giơ hai chân thẳng đứng lên trời..., quen với trò chơi của các em chúng tôi vui lây với chúng. Chưa hết đâu, chúng còn trèo lên cành sung vươn ra tận giữa sông rồi nhảy ùm xuống tưởng như chúng biến luôn vào dòng nước... Thật chẳng may cho chàng trai nào đi qua bến lúc này, lập tức những cái đầu đẫm nước nhô lên kèm theo câu trêu chọc vang mặt sông: “sông làng tôi vừa trong vừa mát, đường làng tôi lắm cát dễ đi, chị ơi ve vẩy làm chi, để cho anh ấy đi đi về về”. Chàng trai đỏ mặt vấp ngược, vấp xuôi liếc ngang vào đám cô gái đang vừa cười, vừa đấm lưng nhau thùm thụp, còn dưới sông bọn trẻ lặn mất tăm. Rồi, bất ngờ chúng lại ngoi lên đón đầu chàng trai và lại tiếp diễn trò trêu chọc tinh ranh. Chị em con gái chúng tôi thường gội đầu cho nhau ở bến, bồ kết nướng thơm, đập dập, gói vào mảnh vải mỏng buộc túm lại. Làn tóc thả trong nước mềm mại uốn lượn như rêu, những con cá lạt mạ trắng óng ánh lượn lờ kiếm mồi đớp cả vào chân nhột nhột, lẩn cả vào tóc làm cho mái tóc như được giắt cài trâm bạc vậy.

***

Thời gian trôi vèo như cánh lá bay. Lứa bạn bè chúng tôi tứ tán muôn phương. Qua chiến tranh, kẻ còn người mất. Kẻ nên danh, nên giá, người lận đận vất vả; bến nước bây giờ không còn là bến nước của ngày xưa; những cây cổ thụ, đá lát bến và con chó đá ngồi chống hai chân trước toàn thân thẳng đứng, nhìn dòng sông bến nước với dáng vẻ suy tư từ thời khắc này sang thời khắc vô cùng cũng không còn. Bến cũ đã là nền móng của những căn nhà xây kiên cố hôm nay. Dòng sông hẹp lại, làng san sát nhà xây mái bằng, nhà tầng. Mừng vì nhịp sống đi lên theo bước đi công nghiệp đã xóa cho làng những mái tranh nghèo, nhưng sao tôi cứ nuối tiếc bến làng xưa, hoa lộc vừng, chùm sung xanh, những hòn đá thạch anh trắng muốt.

Nhức nhối trước mắt tôi những túi giấy bóng, những vỏ bao gói đồ ăn, và đủ loại rác rưởi không trôi đi được phập phều dồn ứ lại bốc mùi tanh hôi. Dòng sông không thể nuốt trôi những thứ ấy...

Sông xưa. Huyền thoại xưa. Bến làng, chỉ còn là ký ức.

Tản văn của Vũ Thị Khương (CTV)

Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/ben-lang-32666.htm