Bệnh nhân ung thư sợ đụng 'dao kéo', bác sĩ cảnh báo quan niệm sai lầm
Sợ đụng 'dao kéo', nhiều bệnh nhân ung thư từ chối điều trị theo y học hiện đại, về nhà uống thuốc nam, khi quay lại viện thì đã hết cơ hội điều trị.
Hai năm trước, người đàn ông 75 tuổi quê Điện Biên từng phẫu thuật ung thư dạ dày, sức khỏe ổn định. Gần đây, bệnh của ông tái phát, bác sĩ khuyên phẫu thuật để kéo dài sự sống. Tuy nhiên, sau vài giờ thảo luận với gia đình, ông quyết định từ chối điều trị vì cho rằng có mổ cũng không sống được thêm bao lâu nữa.
Bác sĩ Hà Hải Nam, Phó trưởng khoa Ngoại bụng 1, Bệnh viện K, thuyết phục người bệnh rằng, cuộc phẫu thuật trước giúp ông sống khỏe trong hai năm và tiên lượng cuộc mổ sắp tới cũng rất khả quan. Đáp lại lời khuyên của bác sĩ, người bệnh nói muốn trở về nhà dùng thuốc nam, từ chối can thiệp dao kéo.
Một trường hợp khác, cụ ông 80 tuổi đến bệnh viện khám được chẩn đoán bị ung thư đại tràng. Bác sĩ chỉ định phẫu thuật nhưng ông cũng từ chối vì lý do sợ đụng dao kéo. Hai tháng sau, ông quay trở lại viện trong tình trạng nguy kịch do vỡ ruột.
Lúc này, bác sĩ không thể phẫu thuật hay đóng hậu môn giả vì sức khỏe bệnh nhân quá yếu, mắc nhiều bệnh nền. Nằm viện theo dõi một tuần, gia đình xin đưa ông về nhà.
Bác sĩ Nam chứng kiến rất nhiều người bệnh từ chối điều trị bệnh theo y học hiện đại. Họ lo sợ ung thư là “án tử”, tin vào thuốc nam hơn y học hiện đại. Không chỉ từ chối phẫu thuật, nhiều bệnh nhân còn e ngại các xét nghiệm chẩn đoán, từ chối nội soi vì sợ phát hiện ra bệnh sẽ lo lắng, tâm lý bị ảnh hưởng.

Bác sĩ Nam trong một ca phẫu thuật cho bệnh nhân ung thư.
Theo bác sĩ Nam, nhiều người cho rằng khi chẩn đoán xác định là ung thư thì không được động chạm dao kéo, bởi như vậy chỉ khiến người bệnh nhanh chóng đi tới đoạn kết. “Đó là quan niệm không đúng”, bác sĩ Nam nói.
Phẫu thuật có vai trò rất quan trọng trong cả chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư. Nếu ở giai đoạn sớm, phẫu thuật là phương pháp gần như duy nhất để điều trị, hơn thế còn điều trị để khỏi bệnh.
Ở giai đoạn muộn hơn, phẫu thuật sẽ kết hợp với các phương pháp khác để giúp quá trình điều trị đạt hiệu quả tối ưu. Ví dụ như việc hóa xạ trị trước mổ trong ung thư trực tràng giúp khối u nhỏ lại, tạo thuận lợi để phẫu thuật cắt bỏ sạch sẽ khối u và hạch. Hóa chất sau mổ đối với ung thư phổi, dạ dày giúp tăng tỷ lệ khỏi bệnh so với việc chỉ phẫu thuật đơn thuần.
Bên cạnh đó, có những bệnh ung thư, ngoài phẫu thuật, sẽ không có phương pháp điều trị triệt để nào khác như ung thư tuyến giáp, ung thư da, ung thư phần mềm,ung thư hắc tố. Chưa hết, ung thư ở giai đoạn có biến chứng như chảy máu, tắc ruột, thủng vỡ u thì bắt buộc phải có can thiệp ngoại khoa tức là phẫu thuật, nếu không người bệnh sẽ bị nguy hiểm tới tính mạng.
Cũng có những bệnh ung thư phẫu thuật có rất ít vai trò như ung thư vòm, ung thư hạch bạch huyết, bởi lúc đó vai trò của hóa chất, xạ trị mới là yếu tố quyết định. Nhưng khi đó, phẫu thuật vẫn có vai trò sinh thiết để chẩn đoán ra bệnh.
Theo bác sĩ, tỷ lệ bệnh nhân ung thư bỏ điều trị ở Việt Nam lên đến 30%. Ngoài tâm lý sợ hãi, nhiều người còn gặp khó khăn tài chính. Hiện nay, bảo hiểm y tế chỉ chi trả một số phương pháp điều trị truyền thống như hóa trị, trong khi các liệu pháp tiên tiến như miễn dịch lại quá đắt đỏ, khiến chỉ 10% bệnh nhân có cơ hội tiếp cận.
Bác sĩ khuyến cáo bệnh nhân cần tin tưởng và thực hiện theo đúng phác đồ của bác sĩ chuyên khoa, chữa trị sớm nhất có thể, thực hiện chế độ dinh dưỡng đầy đủ chất giúp cơ thể chống chọi bệnh tật.
Hiện chưa có nghiên cứu khoa học nào chứng minh ung thư có thể trị khỏi bằng đông y, thực phẩm chức năng hoặc các phương pháp dân gian, nhịn ăn, thực dưỡng, tu tập...
Việc tự ý điều trị, đặt niềm tin vào những lời quảng cáo, truyền miệng có thể dẫn đến hậu quả đáng tiếc, tốn kém kinh tế, khiến người bệnh bỏ lỡ "giai đoạn vàng", mất cơ hội chiến thắng bệnh tật.