BESS đứng trước cơ hội trở thành hạ tầng năng lượng mới

Từ nay đến 2030, Việt Nam kỳ vọng nâng công suất hệ thống lưu trữ năng lượng bằng pin (BESS) lên 16.300 MW theo Quy hoạch điện VIII, song hiện trạng chỉ mới đạt dưới 100 MW.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Việt Nam đang chứng kiến nhu cầu điện tăng trung bình khoảng 8% mỗi năm, đạt 276,4 TWh vào năm 2024. Cùng với đó, công suất lắp đặt năng lượng gió và mặt trời đã vươn tới 23 GW, chiếm 27% tổng công suất hệ thống.

Tuy nhiên, tốc độ phát triển nhanh của năng lượng tái tạo cũng đặt ra nhiều thách thức cho lưới điện: thiếu hụt nguồn ở miền Bắc, nghẽn lưới cục bộ và nguy cơ giảm ổn định hệ thống.

Trong bối cảnh đó, hệ thống lưu trữ năng lượng bằng pin (BESS) nổi lên như giải pháp then chốt để tăng tính linh hoạt, hỗ trợ cân bằng phụ tải và giảm cắt giảm điện tái tạo.

Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đã nâng mục tiêu BESS lên 10.000–16.300 MW vào năm 2030. Thực tế đến nay mới chỉ có dưới 100 MW được lắp đặt. Điều này đặt ra câu hỏi: làm thế nào để mở khóa thị trường BESS còn ở giai đoạn sơ khai?

Mekong ASEAN đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Thanh Minh, Giám đốc điều phối quốc gia Liên minh Năng lượng Toàn cầu vì Con người và Hành tinh (GEAPP) tại Việt Nam - một tổ chức quốc tế hoạt động nhằm thúc đẩy đầu tư vào năng lượng sạch và các giải pháp chuyển đổi năng lượng xanh, cung cấp chuyên môn kỹ thuật và hỗ trợ tài chính giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu về năng lượng tái tạo, thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.

Hiện GEAPP đang hợp tác với Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam nhằm tháo gỡ điểm nghẽn lớn nhất của thị trường lưu trữ năng lượng, thông qua các sáng kiến tài chính hỗn hợp cùng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và dự án thí điểm BESS với EVN, GEAPP hướng tới mục tiêu chia sẻ rủi ro, mở khóa dòng vốn tư nhân cho các dự án tiên phong.

Bà Nguyễn Thị Thanh Minh, Giám đốc điều phối quốc gia GEAPP tại Việt Nam. Ảnh: Duy Nguyễn

Bà Nguyễn Thị Thanh Minh, Giám đốc điều phối quốc gia GEAPP tại Việt Nam. Ảnh: Duy Nguyễn

Mekong ASEAN: Thị trường BESS tại Việt Nam đang ở giai đoạn sơ khai, thách thức lớn nhất hiện nay là gì, thưa bà?

Nguyễn Thị Thanh Minh: Tôi cho rằng ổn định và minh bạch về chính sách là nền tảng quan trọng để tạo niềm tin cho nhà đầu tư tư nhân.

Tại Việt Nam, chúng tôi đang phối hợp chặt chẽ với Cục điện lực (EAV) và Tổ công tác BESS để xây dựng một khung pháp lý rõ ràng, bao gồm cơ chế giá điện, tích hợp lưới và dịch vụ phụ trợ cho lưu trữ điện, nhằm tạo môi trường dự đoán được cho các dự án BESS.

Ngoài ra, GEAPP cũng khuyến nghị việc chuẩn hóa hợp đồng, nâng cao tiêu chuẩn kỹ thuật và triển khai các dự án thí điểm với mô hình hợp đồng minh bạch.

Những bước này giúp nhà đầu tư đánh giá chính xác rủi ro và đưa ra quyết định đầu tư tự tin hơn, từ đó tăng khả năng huy động tài chính ở quy mô lớn cho các dự án năng lượng sạch, đồng thời rút ngắn thời gian từ dự án thử nghiệm đến thương mại hóa.

Mekong ASEAN: GEAPP đang áp dụng cơ chế tài chính như thế nào để hỗ trợ Việt Nam vượt qua thách thức này?

Bà Nguyễn Thị Thanh Minh: GEAPP đóng vai trò như một “chất xúc tác” cho thị trường. Chúng tôi sử dụng tài chính hỗn hợp (blended finance) để chia sẻ rủi ro cho giai đoạn đầu, bao gồm cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, triển khai các dự án thí điểm và kết nối các bên liên quan từ cơ quan quản lý, doanh nghiệp trong nước đến nhà đầu tư quốc tế.

Ví dụ, GEAPP có thể cung cấp "vốn mồi" hoặc tài trợ nghiên cứu khả thi, giúp dự án BESS đầu tiên trở nên khả thi để vay vốn. Khi dự án chứng minh được hiệu quả kỹ thuật và thương mại sẽ tự động thu hút dòng vốn lớn hơn.

Cách tiếp cận này giúp chia sẻ rủi ro ban đầu, tạo niềm tin cho thị trường, qua đó mở đường cho các ngân hàng phát triển đa phương và các nhà tài trợ song phương tham gia sau đó.

Dòng vốn tư nhân quy mô lớn này mới là nguồn lực chủ chốt và bền vững để phát triển BESS tại Việt Nam. Nhờ vậy, các dự án năng lượng sạch – đặc biệt là BESS – có cơ hội được triển khai sớm hơn, khả thi hơn và có thể mở rộng quy mô trên toàn quốc.

Mekong ASEAN: Việt Nam đang hợp tác với GEAPP qua những kênh nào, thưa bà?

Nguyễn Thị Thanh Minh: Chúng tôi đi theo cách tiếp cận đa kênh. Trụ cột chính là quan hệ đối tác với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thông qua nền tảng ENABLE.

Thông qua ENABLE, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ nguồn vốn ưu đãi, giúp giảm chi phí đầu tư ban đầu và chia sẻ rủi ro cho nhà đầu tư. Đồng thời cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho cơ quan quản lý và các đơn vị vận hành và chia sẻ kinh nghiệm khu vực từ các thị trường tiên tiến, giúp rút ngắn đường cong học hỏi.

Mục tiêu dài hạn là giúp Việt Nam hình thành một hệ sinh thái BESS bền vững, thu hút vốn tư nhân và quốc tế, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng sạch trên toàn quốc.

Ngoài ra, GEAPP phối hợp trực tiếp với EVN và các cơ quan Chính phủ để thiết kế khung hợp tác công – tư, giúp vốn ưu đãi và vốn thương mại có thể triển khai song song.

Mekong ASEAN: Hiện đã có những dự án cụ thể nào đang được triển khai thí điểm tại Việt Nam, thưa bà?

Nguyễn Thị Thanh Minh: GEAPP đã thành lập Tổ công tác BESS (BESS Task Force) phối hợp với ERAV, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng lộ trình triển khai hệ thống lưu trữ điện trên toàn quốc.

EVN Hà Nội hiện đang chuẩn bị dự án thí điểm BESS 50 MW/50 MWh. GEAPP cũng đang đề xuất hỗ trợ EVN HCM với dự án BESS 5 MW nhằm thí điểm vận hành lưu trữ điện và tối ưu hóa phụ tải tại địa phương.

Đồng thời, EVN đang lên kế hoạch triển khai tổng cộng 1.200 MW BESS trên toàn quốc. Kế hoạch này được thiết kế để đáp ứng nhu cầu phụ tải đỉnh, đảm bảo khả năng cung ứng điện ổn định trong năm 2026 và các năm tiếp theo.

Ngoài lưu trữ điện, chúng tôi đã phối hợp với Petrolimex nghiên cứu phát triển hạ tầng trạm sạc, hoán đổi pin xe máy điện (e-mobility) và hỗ trợ nghiên cứu thí điểm. Hệ thông BESS phía sau công tơ là một trong những giải pháp khử carbon trong khu công nghiệp.

Những hoạt động này không chỉ tạo tiền đề kỹ thuật và tài chính cho các dự án BESS mà còn hỗ trợ các giải pháp năng lượng sạch khác, từ e-mobility đến khử carbon công nghiệp, giúp Việt Nam tiến gần hơn tới các mục tiêu chuyển dịch năng lượng bền vững.

Ở góc độ chính sách, chúng tôi đang cùng ERAV và Tổ công tác BESS xây dựng cơ chế giá điện, dịch vụ phụ trợ và tiêu chuẩn kỹ thuật cho lưu trữ.

Cần sớm có các hợp đồng mẫu rõ ràng để nhà đầu tư đánh giá được rủi ro. Việt Nam cũng nên triển khai một số dự án thí điểm theo mô hình hợp đồng minh bạch, nhờ đó hình thành “tín hiệu thị trường”. Khi nhà đầu tư thấy được lộ trình chính sách rõ ràng, khả năng huy động vốn sẽ tăng lên đáng kể.

Mekong ASEAN: Về dài hạn, GEAPP sẽ đồng hành với Việt Nam như thế nào?

Nguyễn Thị Thanh Minh: Chúng tôi có ba ưu tiên. Thứ nhất, huy động tài chính khí hậu quy mô lớn, thông qua các nền tảng tài chính hỗn hợp, với mục tiêu thu hút hàng tỷ USD vốn tư nhân.

Thứ hai, thúc đẩy công nghệ mới như BESS, e-mobility và khử carbon công nghiệp, để tăng an ninh năng lượng và năng lực cạnh tranh.

Thứ ba, bảo đảm chuyển dịch năng lượng gắn liền với lợi ích xã hội – đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ sinh kế và tiếp cận năng lượng công bằng.

GEAPP sẽ phối hợp chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam, các định chế phát triển, và khu vực tư nhân để bảo đảm quá trình tăng trưởng của Việt Nam trong hai thập kỷ tới được dẫn dắt bởi các giải pháp năng lượng sạch, bền vững và có khả năng chống chịu cao.

Mekong ASEAN: Xin cảm ơn bà!

Ngọc Linh

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/bess-dung-truoc-co-hoi-tro-thanh-ha-tang-nang-luong-moi-46114.html