Bí mật của tàu ngầm I-52 của Đế quốc Nhật trong Thế chiến II
75 năm sau ngày Chiến tranh Thế giới lần thứ II kết thúc (tháng 5/1945 - tháng 5/2020), nhiều hồ sơ quân sự tuyệt mật đã được bạch hóa, trong đó có chiếc tàu ngầm I-52 của Đế quốc Nhật, đã từng mang theo 800kg oxit urani để chế tạo bom bẩn và 2,2 tấn vàng….
Những thỏa thuận ban đầu
Tháng 12/1943, gần ba năm rưỡi sau khi Thế chiến II bùng nổ và 3 năm sau khi phát xít Nhật cùng Đức Quốc xã ký kết hiệp ước liên minh quân sự, một đoàn tàu gồm 4 chiến hạm Nhật dẫn đầu bởi tướng Tomoyuki Yamashita, bí mật đến Berlin, Đức, trên danh nghĩa viếng thăm hữu nghị.
Với biệt danh “con hổ Malaya”, tướng Yamashita là kiến trúc sư của cuộc chiếm đóng Singapore, Miến Điện (nay là Myanmar), Philippines, Malaysia, Việt Nam và một phần lục địa Trung Quốc… Tại Berlin, trong cuộc hội kiến với Adolf Hitler, tướng Yamashita đã được Hitler yêu cầu nước Nhật phải tiếp tục tuyên chiến với nước Anh sau khi đã tuyên chiến với Mỹ qua vụ tập kích Trân Châu Cảng.
Tuy nhiên thời điểm ấy, Yamashita chưa cảm thấy hứng thú với việc mở rộng chiến tranh bởi lẽ người Nhật còn đang bận rộn với việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên như gạo, cao su, than đá, đồng, thiếc, quặng sắt… ở Đông Nam Á, cũng như bảo vệ các hòn đảo đã chiếm được ở Thái Bình Dương.
Cái mà Yamashita quan tâm là những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của người Đức trong việc chế tạo radar, máy bay, xe tăng và thiết bị quang học. Theo Yamashita, chỉ khi nào nước Nhật nắm vững các kỹ thuật này thì quân đội Thiên Hoàng mới “tính sổ” với Anh quốc!
Cuối cùng, một thỏa thuận cũng được ký kết giữa Hitler và Yamashita. Theo đó, phía Nhật sẽ giao cho Đức 9,8 tấn molypden, 11 tấn vonfram, 2,2 tấn vàng, 3 tấn thuốc phiện và 54 kg cafein để đổi lấy 800kg oxit uranium, khoảng 4 tấn tài liệu, bản vẽ thiết bị quân sự, 1 ngư lôi siêu âm T-5, 1 động cơ 213 Jumo lắp trên máy bay tiêm kích Focke-Wulf 190, 2 hệ thống radar cùng các thiết bị quang học và kỹ thuật để làm ra chúng.
Với 800kg oxit uranium chưa làm giàu, nó không đủ để phát xít Nhật chế tạo một quả bom nguyên tử nhưng nó thừa khả năng biến thành những quả bom bẩn. Địa điểm giao nhận những loại hàng hóa nêu trên là cảng Lorient, Pháp, đã bị Đức Quốc xã chiếm đóng, Con tàu được Yamashita chọn để thực hiện nhiệm vụ cực kỳ bí mật này là loại tàu ngầm vận tải lớp C-3, mã danh I-52.
Chuyến đi cuối cùng của tàu ngầm I-52
Khởi hành ngày 10/3/1944 dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Uno Kameo và thủy thủ đoàn 94 người cùng 14 kỹ sư, là những người đang học hỏi công nghệ Đức về pháo phòng không, động cơ cho tàu phóng ngư lôi, chiếc I-52 nhổ neo rời cảng Kure rồi đi qua Sasebo đến Singapore. Tại đây, nó lấy thêm 120 tấn thiếc, 59,8 tấn cao su thiên nhiên, 3,3 tấn quinin (dùng để chế tạo thuốc chống sốt rét). Sau đó nó vượt Ấn Độ Dương, ra Đại Tây Dương.
Với chiều dài 108,66m, đường kính thân chỗ lớn nhất 9,30m, tàu ngầm I-52 được thiết kế và chế tạo bởi tập đoàn Mitsubishi. Khi chạy trên mặt nước, nó sử dụng 2 động cơ Diesel tổng công suất 4.700 mã lực với tốc độ 32,87 km/ giờ còn khi lặn dưới nước, tốc độ này là 12km/giờ, tạo ra bởi 1 động cơ điện công suất 1.200 mã lực. Vì là tàu chuyên dùng chở hàng nên I-52 chỉ lặn sâu tối đa 100m, vũ khí cũng chỉ có 2 pháo 140mm cùng 6 ống phóng ngư lôi 533mm.
Ngày 6/6/1944, khi vẫn còn đang trên biển Đại Tây Dương, thuyền trưởng Uno Kameo nhận được một bức điện, gửi đi từ chuẩn đô đốc Kojima Hideo. Nội dung cho biết quân Đồng Minh đã đổ bộ lên bờ biển Normandy, Pháp, và điều này sẽ đe dọa tàu I-52 khi nó vào cảng Lorient, cũng thuộc Pháp. Vì thế, theo chỉ thị của chuẩn đô đốc Kojima Hideo, tàu I-52 phải chuyển hướng đi Na Uy.
Trên đường đi, ngày 22/6 nó sẽ gặp một tàu ngầm Đức vào lúc 21 giờ 15 phút giờ GMT tại 15-40 độ kinh Đông, 36-23 độ kinh Tây. Tuy nhiên, cả thuyền trưởng Uno Kameo lẫn chuẩn đô đốc Kojima Hideo đều không ngờ rằng bức điện ấy đã bị đơn vị theo dõi tàu ngầm của Hải quân Mỹ là Phòng 21 và Phòng F-211 thuộc Hạm đội 10 thu được.
Lập tức, một kế hoạch được đặt ra. Tàu sân bay Bogue với 9 máy bay cường kích FM-2 Wildcats cùng 12 chiếc tiêm kích Grumman TBF-1C Avenger và 5 tàu khu trục hộ tống gồm USS Francis M. Robinson do trung úy J. E. Johansen là thuyền trưởng, tàu USS Haverfield thuộc Lực lượng đặc nhiệm 51, do trung úy T. S. Lank chỉ huy, tàu USS Swenning do trung úy R. E. Peek chỉ huy, tàu USS Willis do thiếu tá Hải quân G. R. Atterbury chỉ huy và tàu USS Janssen do thiếu tá Hải quân H. E. Cross chỉ huy, đang trên đường từ châu Âu về Mỹ được lệnh quay trở lại, lùng tìm và tiêu diệt tàu ngầm phát xít Nhật.
Dưới sự chỉ huy chung của Hải quân đại tá Aurelius B. Vosseller, nhóm tàu săn lùng khởi hành từ vùng biển Casablanca ngày 15/6/1944. Chiều tối 22-6, khi gần đến điểm hẹn giữa tàu ngầm Nhật và tàu ngầm Đức, tàu sân bay Bogue tung ra những cuộc trinh sát bằng máy bay Avengers để tìm kiếm chiếc I-52 nhưng không phát hiện được gì.
21 giờ 18 phút, cách quần đảo Cape Verde 1.574km về phía tây ngoài khơi bờ biển Châu Phi, tàu ngầm I-52 nhận được tín hiệu liên lạc của tàu ngầm Đức U-530 do Kurt Lange là thuyền trưởng. 6 phút sau đó, cả 2 cùng nổi lên mặt nước. U-530 chuyển cho I-52 một lượng dầu Diesel khoảng 2.000 lít, 1 bộ mã hóa, 1 radar Naxos Fumb 7 cùng 2 sĩ quan điều khiển radar là Schulze và Behrendt. Bên cạnh đó, I-52 còn nhận thêm 1 sĩ quan Đức làm nhiệm vụ liên lạc và dẫn đường.
22 giờ 45, I-52 lặn xuống, hướng về bờ biển Na Uy. Đến 23 giờ 40, trung sĩ Ed Whitlock, chuyên viên điều hành radar trên máy bay Avenger do Hải quân trung tá Jesse D. Taylor cầm lái, phát hiện dấu hiệu của một chiếc tàu ngầm. Lập tức, trung tá Jesse D. Taylor thả pháo sáng đồng thời thả thêm 5 phao định vị. Những chiếc phao này có gắn microphone để thu những âm thanh phát ra từ chân vịt tàu ngầm.
0 giờ 10 phút, sau khi đã xác định chắc chắn những tín hiệu thu được từ 5 phao định vị là của tàu ngầm, Taylor lập tức tấn công bằng ngư lôi Mark 24. Đây là loại ngư lôi được phát triển bởi Phòng thí nghiệm âm thanh dưới nước thuộc Đại học Harvard. Chỉ vài phút kể từ lúc thả, dưới ánh sáng rực rỡ của những quả pháo sáng, Taylor thấy mặt biển sủi lên một cuộn sóng hình nấm còn 5 phao định vị hiển thị trên màn mình một vụ nổ với cường độ rất lớn.
Trên tàu sân bay USS Bogue, căn cứ vào báo cáo của Taylor, Hải quân Mỹ tin rằng họ đã đánh chìm tàu ngầm I-52 của phát xít Nhật. Tuy nhiên, khi chiếc máy bay Avenger của Taylor quay về tàu Bogue để thay thế bằng chiếc Avenger do trung úy William "Flash" Gordon cầm lái cùng với Fish, chuyên gia về dò tìm âm thanh dưới nước thì Fish phát hiện vẫn có tiếng ồn của cánh quạt chân vịt.
Lập tức, Hải quân đại tá Aurelius B. Vosseller ra lệnh cho Taylor quay lại, tiếp tục tấn công. Dựa vào tín hiệu của 5 phao định vị thủy âm, Fish đề nghị trung úy Gordon thả ngư lôi Mark 24 xuống vị trí do Fish chỉ dẫn. Cũng như quả ngư lôi do Taylor thả, mặt nước sủi lên nhưng lần này, 30 phút kể từ khi ngư lôi Mark 24 nổ, chuyên gia Fish cũng như 5 phao định vị thủy âm không còn ghi nhận bất cứ một âm thanh nào. Họ quay về tàu sân bay Bogue lúc 1 giờ 57 phút.
Sáng hôm sau, ngày 23/6, tàu USS Janssen đến nơi máy bay Avenger đã thả ngư lôi. Trên mặt biển, các thủy thủ phát hiện 1 kiện cao su thiên nhiên, 1 mảnh vải lụa và những mảnh thịt người trôi dập dềnh trên sóng.
Sau này, khi đã tìm thấy xác tàu I-52 dưới đáy biển, các nhà phân tích tại Phòng thí nghiệm vật lý ứng dụng, Đại học Johns Hopkins kết luận rằng chiếc I-52 bị Taylor tiêu diệt, còn âm thanh chân vịt nghe được bởi Fish là của chiếc U-530, lúc ấy đang ở cách nơi thả bom khoảng 30 đến 32km. Mãi đến ngày 2/8/1944, Hải quân Nhật mới chính thức xác nhận chiếc I-52 đã bị đánh chìm.
5,7 chứ không phải 2,2 tấn vàng
Cuối năm 1994, một chiến dịch mang tên Project Orca được những người Mỹ chuyên săn tìm các kho báu dưới đáy biển tiến hành để xác định vị trí tàu I-52. Thời điểm này, 1 tàu của Nga là chiếc Akademik Keldysh cũng đang thực hiện nhiệm vụ tương tự nhưng cả hai đều thất bại.
Mùa xuân năm 1995, Paul Tidwell thuộc Công ty thám hiểm đại dương Meridian Sciences Inc (sau này đổi tên thành Nauticos Corp) tìm thấy xác tàu I-52 nằm theo tư thế gần như thẳng đứng ở độ sâu 5.200m. Hình ảnh từ camera gửi về cho thấy tháp chỉ huy của I-52 còn nguyên vẹn cùng với số hiệu của tàu. Chỉ có phần mũi tàu bị phá vỡ do tác động của ngư lôi Mark 24.
Theo kế hoạch, Paul Tidwell và Công ty Meridian Sciences Inc sẽ tiến hành trục vớt tàu I-52 để thu hồi 2,2 tấn vàng mà theo thời giá lúc ấy, nó là 25 triệu USD.
Trước đó, Paul Tidwell đã làm việc với Chính phủ Nhật Bản và nhận được sự chấp thuận của Cục Phòng vệ (tương đương với Bộ Quốc phòng) bởi lẽ chiếc I-52 chìm trong vùng biển quốc tế, không quốc gia nào có chủ quyền nhưng một số ý kiến trong Nội các Nhật cho rằng nên để tàu I-52 nằm yên tại chỗ vì đó là nấm mồ của thuyền trưởng Uno Kameo và thủy thủ đoàn 94 người cùng 14 kỹ sư.
Tuy nhiên, công việc trục vớt vẫn tiếp tục với sự cam kết 2,2 tấn vàng thu hồi cùng các vật dụng trên tàu sẽ được chuyển đến New Orland, bang Lousiana, Mỹ, để làm sạch và xử lý chống ăn mòn rồi đưa ra trưng bày tại sòng bài Mandalay, thành phố Las Vegas, bang Nevada. Sau 3 năm trưng bày, mọi thứ sẽ được trả lại cho Chính phủ Nhật – ngoại trừ vàng! Bằng cách sử dụng tàu ngầm không người lái Trieste, nhóm của Paul Tidwell đưa lên được 1 thùng kim loại nhưng khi mở ra, nó không phải là vàng mà là… thuốc phiện.
Năm 2019, với những thiết bị hàng hải tiên tiến của quân đội Mỹ, Paul Tidwell một lần nữa quyết tâm đưa 2,2 tấn vàng lên khỏi mặt nước. Thông qua Công ty Sound Ocean Systems Inc, Tidwell thuê chiếc Yuzhmorgeologiya - là tàu nghiên cứu lớn của Nga nhưng ngay lập tức, ông biết rằng một nhóm người Anh cũng sử dụng một tàu Nga là tàu Akademik Keldysh để lấy vàng trên chiếc I-52.
Ngày 2/5/2019, Tidwell ra tuyên bố quốc tế về quyền cứu hộ của mình với tàu I-52 để loại nhóm người Anh ra khỏi cuộc chơi. Ông cho biết sau khi thu hồi 2,2 tấn vàng, I-52 sẽ được đưa lên khỏi mặt nước bằng cách cách bơm vào khoang tàu một loại bọt đặc biệt, đủ để cho nó tự nổi lên. Toàn bộ chi phí sẽ tốn từ 5 triệu đến 8 triệu USD.
Đến ngày 5/5, thông qua những hình ảnh do các tàu ngầm không người lái gửi về, Tidwell tiến hành một thực nghiệm: Bằng cách làm một chiếc thùng với kích thước giống như chiếc thùng chứa vàng trên tàu I-52, Tidwell mượn một số thỏi vàng của Công ty Holdings - chuyên kinh doanh vàng bạc - rồi bỏ vào cho đầy. Ông khẳng định: “Qua thực nghiệm, với tổng số thùng vàng hiện có trên tàu I-52 thì nó phải là 5,7 tấn…”.
Hiện tại, công việc tìm vàng vẫn đang tiếp tục với quyết tâm của Tidwell: “Sẽ không trở về với hai bàn tay trắng”.