Bí thư, trưởng bản - đại biểu của lòng dân
ĐBP - Ở vùng cao biên giới tỉnh Điện Biên, tình trạng đồng bào dân tộc thiểu số chưa thạo tiếng phổ thông, mù chữ vẫn còn khiến việc tuyên truyền, triển khai các chủ trương, nghị quyết gặp không ít khó khăn, có nghị quyết không đến được với dân. Giữa rào cản ấy, những đại biểu HĐND là bí thư chi bộ, trưởng bản trở thành “phiên dịch viên” đặc biệt của người dân. Bằng tiếng mẹ đẻ và cách nói mộc mạc, họ giúp bà con hiểu, tin và làm theo nghị quyết của Đảng, Nhà nước. Không chỉ truyền đạt, họ còn lắng nghe, phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của cử tri đến chính quyền các cấp, để nghị quyết thấm sâu vào đời sống, chạm đến từng mái nhà, từng nếp nghĩ người dân.
Bài 1: Rào cản ngôn ngữ khiến nghị quyết khó gần dân
Điện Biên có 19 dân tộc, trong đó nhiều dân tộc rất ít người như: Cống, Si La, Phù Lá, Xinh Mun… Ở nhiều bản vùng cao, tiếng phổ thông vẫn là “bức tường vô hình” ngăn cách giữa nghị trường và bản làng, khiến việc tuyên truyền, triển khai nghị quyết HĐND các cấp đến người dân gặp khó khăn. Khi nghị quyết chưa thể “nói” bằng tiếng của dân, khoảng cách giữa chủ trương, chính sách với cuộc sống người dân vẫn còn xa, còn cách trở - đây là nỗi trăn trở của những người làm công tác dân cử nơi biên giới suốt nhiều năm qua.

Thường trực HĐND tỉnh giám sát việc thực hiện Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐND tỉnh về hỗ trợ phát triển nông, lâm nghiệp trên địa bàn xã Tủa Thàng.
“Khoảng trống” ngôn ngữ
Tỉnh Điện Biên có hơn 83% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó dân tộc Mông chiếm trên 38%, Thái gần 36%, Kinh khoảng 17%, còn lại là Khơ Mú, Dao, Kháng, Phù Lá, Tày… và một số dân tộc rất ít người khác. Ở nhiều bản làng vùng cao, biên giới, nhiều người dân, nhất là nhóm người lớn tuổi (trên 60 tuổi) vẫn chưa thạo tiếng phổ thông. Không ít nơi, từ sinh hoạt cộng đồng đến họp chi bộ, hay trong giao tiếp hàng ngày, người dân vẫn sử dụng hoàn toàn tiếng địa phương. Với họ, tiếng phổ thông vẫn là “ngôn ngữ của người miền xuôi” còn xa lạ.
Rào cản ngôn ngữ ảnh hưởng lớn việc tiếp nhận và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Bản Nậm Sin (xã biên giới Mường Nhé) có gần 60 hộ với hơn 200 nhân khẩu dân tộc Si La - một trong 15 dân tộc rất ít người của Việt Nam. Trước đây, bản biệt lập với bên ngoài, người dân chủ yếu tự cung tự cấp. Những năm gần đây, diện mạo bản làng đã đổi thay, song do tập quán lâu đời và lối sống khép kín, bà con vẫn chủ yếu nói tiếng Si La, nhiều người chưa sử dụng được tiếng phổ thông.
Ông Lỳ Hồng Sơn, Trưởng bản Nậm Sin chia sẻ: Không phải ai trong bản cũng nói được tiếng phổ thông. Nhiều người lớn tuổi cả đời chỉ gắn bó với núi rừng, chưa từng đi học, nên khả năng nghe, hiểu tiếng phổ thông rất hạn chế. Khi cán bộ về phổ biến nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước, bà con thường chỉ ngồi im lặng, gật đầu cho xong, ít ai dám hỏi lại vì ngại, sợ mình không hiểu. Bởi vậy, không ít chủ trương, chính sách, nghị quyết vẫn còn xa lạ với người dân, chưa phát huy hiệu quả.
Dân tộc Mông đông nhất tỉnh, nhưng cũng là nhóm có tỷ lệ người chưa biết tiếng phổ thông cao nhất. Do tập quán sinh sống trên những núi cao, biệt lập giữa núi rừng, ít giao lưu với bên ngoài, nên ở nhiều bản làng, việc sử dụng tiếng phổ thông vẫn còn hạn chế. Như trường hợp bà Thào Thị Giàng, bản Phìn Hồ, xã Si Pa Phìn mới gần 50 tuổi, nhưng không biết đọc, không biết viết và không nói được tiếng phổ thông. Cuộc sống quanh năm gắn với nương rẫy, mọi sinh hoạt, giao tiếp đều bằng tiếng Mông.
Anh Cháng A Dung, Bí thư Chi bộ bản Phìn Hồ, xã Si Pa Phìn cho biết: Cả bản có 178 hộ, với hơn 1.000 nhân khẩu, 100% đồng bào Mông. Trường hợp không biết tiếng phổ thông như bà Giàng trong bản không hiếm. Cả bản có khoảng gần 300 khẩu không biết tiếng phổ thông; còn những người biết nhưng không thạo thì hầu như nhà nào cũng có. Rào cản ngôn ngữ từ lâu đã khiến bà con khó tiếp cận thông tin, chính sách, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo.
Không chỉ với đồng bào Si La hay Mông, ở nhiều dân tộc khác trên địa bàn tỉnh Điện Biên, việc sử dụng tiếng phổ thông vẫn còn là “khoảng trống” lớn. Rào cản ngôn ngữ không chỉ cản trở giao tiếp mà còn ảnh hưởng đến nhận thức và phát triển. Khi tiếng phổ thông chưa trở thành cầu nối thông suốt giữa cán bộ và người dân tộc thiểu số, giữa nghị quyết và cuộc sống, thì việc chuyển hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thành hành động cụ thể trong từng bản làng vùng cao Điện Biên vẫn còn nhiều khó khăn.
Hệ lụy lâu dài
Những năm qua, HĐND các cấp tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, rào cản ngôn ngữ vẫn là trở ngại khiến việc triển khai nghị quyết, chính sách tại nhiều địa bàn chưa thông. Nhiều nơi, người dân “nghe nhưng không hiểu”, “hiểu chưa đến nơi” dẫn đến tâm lý thụ động, trông chờ hoặc thực hiện chưa đúng tinh thần nghị quyết. Hạn chế về ngôn ngữ cũng làm giảm hiệu quả giám sát, phản ánh, kiến nghị của cử tri, khiến tiếng nói của dân khó đến được với chính quyền.
Năm 2018, HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐND ngày 7/12/2018 về hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp nhằm thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Nghị quyết quy định rõ đối tượng, nội dung (23 nội dung) và điều kiện hỗ trợ, tạo hành lang thúc đẩy sản xuất, nâng cao thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, do rào cản ngôn ngữ và hạn chế nhận thức, công tác tuyên truyền chưa hiệu quả, nhiều người dân chưa tiếp cận được chính sách. Một số nơi, cán bộ cơ sở chưa nắm chắc quy định, thiếu phối hợp, khiến việc triển khai nghị quyết còn chậm.
Qua tổng kết, hiệu quả thực hiện Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐND chưa rõ nét, chính sách hỗ trợ còn dàn trải, nhiều nội dung chưa được người dân và doanh nghiệp hưởng ứng như: Hỗ trợ dồn điền đổi thửa, nuôi cá tầm, cá hồi, trồng hoa anh đào, chuyển đổi đất nương sang trồng rừng... Có 8/23 nội dung chưa triển khai được; một số nội dung còn trùng lặp, chưa phù hợp với thực tế và định hướng tái cơ cấu nông nghiệp, như hỗ trợ cải tạo đàn trâu, bò hoặc thiến trâu, bò đực không đủ tiêu chuẩn giống. Đặc biệt, một số người dân cho rằng chưa từng được nghe, biết đến chính sách hỗ trợ này.
Rào cản ngôn ngữ còn bộc lộ rõ trong các cuộc tiếp xúc cử tri, hoạt động giám sát. Nhiều cử tri có ý kiến nhưng ngại phát biểu vì sợ nói sai, nói không rõ, đại biểu không hiểu. Thực tế tại nhiều kỳ tiếp xúc cử tri ở các xã, bản vùng cao, các ý kiến chủ yếu do lãnh đạo xã, bí thư chi bộ, trưởng bản nêu. Có những cuộc họp, cán bộ nói xong, bà con gật đầu tưởng là đồng thuận, nhưng khi triển khai lại không ai làm - không phải vì chống đối, mà vì chưa hiểu. Qua đó không phát huy được vai trò giám sát, phản biện - một trong những quyền quan trọng nhất của cử tri đối với cơ quan dân cử.
Theo ông Ngô Văn Thanh, Bí thư Đảng ủy xã Pu Nhi (nguyên Phó Chủ tịch HĐND huyện Điện Biên Đông cũ), nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ hạn chế về ngôn ngữ, nhận thức và khả năng diễn đạt của cử tri. Nhiều bà con hiểu vấn đề nhưng không biết cách trình bày, hoặc e ngại vì không nói sõi tiếng phổ thông. Có người muốn góp ý nhưng sợ nói sai, nói không rõ ý nên chọn cách im lặng. Khi tiếng nói của dân không được bộc lộ, quyền giám sát, phản biện bị thu hẹp, khiến nghị quyết khó phản ánh đúng hơi thở cuộc sống.
Rào cản ngôn ngữ là “điểm nghẽn mềm” nhưng lại ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động dân cử ở vùng cao, biên giới Điện Biên. Bởi khi tiếng nói của dân chưa được lắng nghe trọn vẹn, khi nghị quyết chưa được “chuyển ngữ” sang tiếng của đồng bào, thì khoảng cách giữa chính sách và cuộc sống vẫn còn đó. Muốn nghị quyết đi vào cuộc sống, không chỉ cần những quyết sách đúng, trúng, mà còn cần những đại biểu là bí thư chi bộ, trưởng bản am hiểu phong tục, thông thạo tiếng nói của dân tộc mình - những “phiên dịch” đặc biệt đang ngày đêm lặng lẽ nối dài nhịp cầu giữa nghị trường và bản làng, để tiếng nói của Đảng thực sự trở thành tiếng lòng của dân.












