Thu hẹp khoảng cách số, biến nơi khó nhất thành nơi đi đầu

Hành trình đưa dân tộc vào kỷ nguyên số không đại lộ bằng phẳng mà là cuộc trường chinh vượt qua những dốc đứng của sự chênh lệch về hạ tầng, địa lý và cả tư duy.

Tang tảng sáng, ở làng O2, xã Vĩnh Sơn, già Đinh Kiên, ở tuổi gần 80 tuổi, lụi cụi dậy xuống trung tâm xã làm giấy khai sinh cho đứa cháu nội vừa đầy tháng. Ngôi làng nằm gần như biệt lập. Con đường độc đạo gần chục cây số để đến trung tâm xã có tới 4 km là đường rừng với ba con dốc “trán người đi sau chạm gót chân người đi trước”.

Già còn phải băng qua chiếc cầu treo Đăk Miên chênh vênh, bện bằng mây rừng. Trai tráng đi bộ mất hơn hai tiếng, người già phải hơn ba tiếng đồng hồ. Vợ chồng con trai út còn bận rộn trên rẫy nên già phải đi làm khai sinh cho cháu.

Vừa đi, già vừa nhẩm tính. Xuống tới xã chắc cũng gần 9 giờ. Chờ làm giấy tờ, nếu nhanh thì cũng mất cả buổi sáng. Chiều lại phải vội vã đi về trước khi mặt trời khuất núi. Mất trắng một ngày công.

Cái cảnh “đi một lần ngại ngàn lần” ấy, cả làng O2 không ai là không biết. Một tờ giấy khai sinh, một giấy xác nhận hộ nghèo, một thủ tục bảo hiểm y tế… tất cả đều phải đánh đổi bằng mồ hôi, bằng công việc nương rẫy bị bỏ dở.

Thế nhưng, chỉ cách O2 vài con dốc là thôn 7, nơi người dân đã bắt đầu làm quen với việc nộp hồ sơ trực tuyến. Khoảng cách số là khoảng cách giữa một cái chạm tay trên màn hình và một ngày đường lội bộ. Nó không chỉ là vài vạch sóng điện thoại, mà là lằn ranh giữa sự tiện lợi và nỗi nhọc nhằn, giữa cơ hội và sự lỡ làng.

Đêm xuống, trong căn nhà sàn gỗ đã xám bạc màu thời gian của già Đinh Lưk, vật đáng giá nhất là bóng đèn tròn nhỏ nhoi treo lơ lửng, ánh sáng vàng vọt chỉ đủ xua đi bóng tối đặc quánh của núi rừng. Làng O2 mới có điện mặt trời, nhưng chưa có điện lưới quốc gia, và cũng chưa có trạm phát sóng viễn thông.

Cả làng chỉ duy nhất Trưởng thôn Đinh Khích có một chiếc điện thoại “cục gạch”. Nó là phương tiện liên lạc chung, muốn có sóng phải để đúng một vị trí đặc biệt nơi góc nhà mới may ra bắt được vài vạch chập chờn. Mỗi lần có việc cần gọi cho người thân đi làm ăn xa, người dân lại phải tìm đến nhà anh, ái ngại nhờ vả.

Bên bếp lửa bập bùng, già Đinh Kiên, một trong những người cao tuổi nhất làng, ao ước: “Lũ trẻ đi làm ở Bình Dương, cả năm mới về một lần. Nhớ nó, muốn nghe giọng nó cũng khó. Giá như làng mình có cái “internet” như người ta nói, có cái sóng khỏe như ở dưới xã. Lũ trẻ nó bảo có mạng thì gọi điện thấy cả mặt nhau, không mất tiền. Chỉ ngồi trong nhà cũng làm được giấy tờ, không phải đi lại vất vả”.

Ước mơ thấy mặt con cháu qua điện thoại của già Đinh Kiên là một điều quá đơn giản ở nhiều nơi, lại là cả một khát vọng xa xỉ giữa đại ngàn.

Câu chuyện của làng O2 là lát cắt rõ nét nhất về vùng lõm hạ tầng. Nhưng trên hành trình chuyển đổi số quốc gia, còn có rất nhiều “vùng lõm” khác, có những vùng lõm hữu hình và cả những vùng lõm vô hình.

Tại Hoài Nhơn Bắc, nơi ngư dân đã bắt đầu làm quen với nhật ký điện tử, một vùng lõm về tâm lý và thế hệ lại hiện ra. Ông Lê Văn Dũng, một ngư dân, thú thật: “Tụi trẻ thì nó nhanh, chứ mấy ông bạn già bằng tuổi tôi vẫn sợ lắm. Có ông còn bảo: Cái máy này nó theo dõi mình đi đâu, làm gì. Lỡ mình bấm bậy, nó lừa mình thì sao? Họ cứ thích cầm cuốn sổ giấy cho chắc ăn, vì nó quen thuộc, nó trong tầm tay của mình”.

Nỗi sợ đó là có thật. Với một thế hệ đã sống cả đời bằng kinh nghiệm, bằng trực giác, việc đặt niềm tin vào những dòng lệnh, những ứng dụng vô hình là một rào cản tâm lý cực lớn. Họ sợ sai, sợ bị lừa, và sợ cả cái cảm giác mình trở nên lạc hậu, phải phụ thuộc vào con cháu. Một cán bộ Thủy sản kể, có thuyền trưởng đi cả chuyến biển về nhưng nhật ký điện tử trống trơn vì “không biết bấm, ngại hỏi”, khiến cán bộ phải ra tận tàu ngồi nhập lại dữ liệu cho họ.

Nhưng có lẽ, vùng lõm sâu nhất, gây ra nhiều nhức nhối nhất chính là vùng lõm về cơ hội. Thanh niên ở O2, dù có sức trẻ, có khát khao, cũng không thể tìm kiếm việc làm qua mạng, không thể học một kỹ năng mới qua các khóa học online. Người phụ nữ ở O2 muốn bán mớ rau, con gà mình nuôi lớn, phải cõng bộ hàng giờ xuống núi với giá rẻ.

Trong khi đó, ở Hoài Nhơn Bắc, một ngư dân trẻ đã tự tin khoe: “Cá ngừ vừa lên bờ, em chụp hình, cân đo rồi gửi thông số đi. Chỉ 15 phút sau, một thương lái ở TP.HCM chốt đơn, chuyển khoản đặt cọc ngay. Giá còn cao hơn bán tại cảng”.

Nghe câu chuyện đó mà thấy nhói lòng. Cùng sống trong một tỉnh, cùng được hưởng một chủ trương lớn, nhưng cơ hội mà mỗi người nhận được lại khác biệt một trời một vực. Khoảng cách số, không phải là những con số thống kê khô khan, nó chính là nỗi vất vả của già Đinh Lưk, là nỗi nhớ con của già Đinh Bla, và là tương lai bị bỏ lỡ của cả một thế hệ trẻ.

Những “vùng lõm” ấy không chỉ là nỗi trăn trở của người dân, mà còn là mệnh lệnh cấp bách đặt ra cho cả hệ thống chính trị. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về một cuộc chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, không chỉ là một mục tiêu kinh tế - kỹ thuật, mà còn là một sứ mệnh chính trị - xã hội sâu sắc, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ.

Trong nhiều bài phát biểu, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt: Mọi chủ trương, chính sách đều phải lấy người dân làm trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực của sự phát triển.

Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là lựa chọn, mà là con đường sống còn” - Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia vào ngày 13/01/2025. Tinh thần đó đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia do Tổng Bí thư Tô Lâm ký ban hành ngày 22/12/2024.

Từ nghị trường đến thực tiễn, mệnh lệnh xuất phát từ đời sống trong kỷ nguyên mới đã biến thành hành động ở Gia Lai. Mọi thứ bắt đầu từ chính nơi khó khăn nhất. Tại xã Vĩnh Sơn, trong cuộc họp lúc 12 giờ trưa, không khí đặc quánh sự lo âu.

Bí thư Đảng ủy xã Đinh Hoài Đức, một người con của núi rừng, trải tấm bản đồ hành chính ra bàn, khoanh tròn vị trí làng O2, rồi trầm ngâm: “Làng này là khó nhất của chúng ta. Chưa có điện lưới quốc gia, chưa internet, đường đi lại hiểm trở. Nếu chúng ta không có giải pháp đặc thù, họ sẽ lại tụt hậu xa hơn nữa.

Phải ưu tiên kéo cáp quang vào đây sớm nhất có thể. Và ngay khi có mạng, phải có một tổ công tác của những đoàn viên, đảng viên ưu tú nhất, bám trụ ở đó ít nhất một tháng để hướng dẫn bà con từ những cái cơ bản nhất”.

Một cán bộ Đoàn xã trẻ tuổi, đầy nhiệt huyết, chen vào: “Thưa đồng chí Bí thư, em nghĩ với bà con làng O2, nhiều người còn không biết chữ. Nếu chỉ nói về ứng dụng, họ sẽ sợ. Chúng ta phải chuẩn bị tài liệu trực quan, vẽ hình minh họa, thậm chí in những tờ rơi song ngữ Kinh - Ba Na. Phải làm sao để họ thấy công nghệ là người bạn, chứ không phải là một thứ gì đó xa lạ, đáng sợ”.

Ngọn lửa quyết tâm được nhen lên từ sự thấu cảm ở Vĩnh Sơn đã nhanh chóng lan tỏa. Cách đó hơn trăm cây số, ở miền ven biển Hoài Nhơn, một bài toán khác cũng tìm được lời giải bằng một cách tiếp cận tương tự: kiên trì và đồng hành.

Trong cuộc họp của xã, ông Chủ tịch xã cũng vốn là một ngư dân lão luyện, nói thẳng: “Anh em ngư dân chúng tôi cả đời quen với sóng gió, giờ bảo cầm cái điện thoại thông minh để khai báo, chắc chắn sẽ lúng túng. Nhưng khó đến mấy cũng phải làm.

Nếu tàu cá của chúng ta không tuân thủ khai báo điện tử, không chống khai thác IUU, thì con cá, con mực của bà con làm sao vào được thị trường châu Âu? Mất thị trường là mất đi miếng cơm manh áo. Chúng ta phải kiên nhẫn, phải thức đêm cùng họ ở cảng cá, cầm tay chỉ cho họ từng thao tác”.

Ngay lập tức, một Đảng viên trẻ, một Bí thư chi đoàn trẻ tuổi cũng là con của một chủ tàu, chị Huỳnh Thị Thùy Linh mạnh dạn giơ tay: “Thưa các chú, các bác. Con xin xung phong thành lập một nhóm gồm các đoàn viên trẻ trong xã để hỗ trợ ngư dân. Mỗi đoàn viên sẽ phụ trách kèm cặp 5-7 tàu. Chúng con sẽ ra tận cảng, đi cùng họ trong những chuyến đầu tiên, đến khi nào các bác, các chú thành thạo thì thôi”.

Tiếng đồng tình vang lên, những bàn tay rám nắng vỗ mạnh xuống mặt bàn gỗ, như những lời cam kết chắc nịch từ biển khơi.

Những giải pháp đầy sáng tạo và sát sườn từ cơ sở ấy không chỉ giải quyết vấn đề tại chỗ. Nó đã trở thành nguồn cảm hứng và là cơ sở thực tiễn để lãnh đạo cấp tỉnh đưa ra những quyết sách mang tính đột phá, hợp lòng dân.

Tại một hội nghị chuyên đề chuyển đổi số, không khí trong phòng họp của Tỉnh ủy trở nên nóng hơn bao giờ hết. Sau khi nghe báo cáo về tình hình ở các “vùng lõm số”, Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Phạm Anh Tuấn kiên quyết:

Lời phát biểu ấy như một cú hích. Tỉnh mạnh dạn đề xuất Chính phủ cho phép sử dụng nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia để ưu tiên phủ sóng viễn thông. Các nhà mạng lớn như: Viettel, VNPT được mời đến làm việc, không phải với tư cách đối tác thương mại, mà là những “chiến sĩ” trên mặt trận xóa mù số.

Lãnh đạo tỉnh nói thẳng: “Chúng tôi mời các anh tham gia không chỉ vì lợi nhuận, mà vì trách nhiệm xã hội. Hãy cùng chúng tôi dựng những trạm phát sóng 5G ở những nơi mà trong kế hoạch kinh doanh của các anh có thể không bao giờ nghĩ đến”.

Kết quả là, một đoàn kỹ sư viễn thông đã có mặt tại Vĩnh Sơn. Họ không đi xe, mà lội bộ, trèo đèo, mang theo những thiết bị đo đạc hiện đại để khảo sát vị trí đặt trạm BTS gần làng O2 nhất. Hình ảnh những người kỹ sư mồ hôi đầm đìa, áo ướt sũng nhưng ánh mắt đầy quyết tâm đã thắp lên niềm hy vọng thực sự cho người dân nơi đây.

Người viết vẫn nhớ như in ánh mắt của trưởng thôn Đinh Khích khi nhìn thấy các kỹ sư. Anh chạy ra đón, tay bắt mặt mừng, nhưng không nói được lời nào, chỉ lặng lẽ đưa tay lên quệt ngang đôi mắt. Giọt nước mắt ấy, không phải của sự bất lực, mà là của niềm hy vọng.

Hy vọng rằng con đường mòn trơn trượt mà cha ông anh đã đi sẽ sớm được san bớt gánh nặng. Hy vọng rằng những đứa trẻ trong làng sẽ sớm biết đến lớp học trực tuyến. Và hy vọng rằng, giấc mơ được nhìn thấy mặt con cháu qua màn hình điện thoại của già Đinh Kiên sẽ sớm thành hiện thực.

Khoảng cách số là có thật, nhưng nó không phải là định mệnh. Hành trình xóa mù số, cũng như con đường đến với O2, là một hành trình “vượt dốc”. Nhưng giờ đây, người dân không còn phải vượt dốc một mình.

Những bước chân của các kỹ sư, những quyết sách quyết liệt và tấm lòng của những đảng viên trẻ đang cùng họ san phẳng con dốc ấy, để viết tiếp câu chuyện vĩ đại của dân tộc: một đất nước không chấp nhận để bất kỳ ai bị bỏ lại phía sau.

Nguồn VTC: https://vtcnews.vn/thu-hep-khoang-cach-so-bien-noi-kho-nhat-thanh-noi-di-dau-ar983841.html