Bia tháp Bi Quang chùa Thọ Vực

NSGN - Chùa Thọ Vực tên tự là Thiên Thọ thiền tự 天壽禪寺, tọa lạc thôn Thọ Vực, xã Xuân Giang, tỉnh Ninh Bình (1). Căn cứ vào bài minh chung, chùa được trùng tu và đúc chuông vào năm Tân Mão (1711) (2).

Từ niên đại này, xác định chùa đã lập trước đó khá lâu, khoảng thế kỷ XVI. Bài minh chung còn chỉ ra làng Thọ Vực vốn có tên là Hoành Vực xã 横域社(3). Chùa hiện nay được tôn tạo khang trang, với đầy đủ các hạng mục công trình như tam quan, tòa Tam bảo, khách đường, Tổ đường, Tăng xá, thư viện… Bên cạnh chùa là đền thờ bà Chân Nương có công với ngôi làng. Tư liệu ghi chép về ngôi chùa không nhiều, đáng chú ý là bài minh chung, tấm bia Thiên Thọ tự bi ký 天壽寺碑記 lập năm Hàm Nghi thứ 1 (1885) và Bi Quang tháp ký văn 悲光塔記文 (dưới đây gọi tắt là bia tháp) mà chúng tôi sẽ giới thiệu dưới đây.

Giới thiệu Bi Quang tháp ký văn

Vườn tháp chùa nằm bên mé trái, cách tòa Tam bảo bởi lối vào chùa khá rộng. Vườn tháp có 6 ngôi tháp, nằm trên trục thẳng, ngăn cách bởi bờ tường thấp, thoáng. Mặt chính của các ngôi tháp nhìn hướng Đông, lưng tựa tòa Tam bảo. Các tháp Tổ xây theo hình khối vuông, tứ giác, thân tháp khỏe mập, thường chỉ có ba tầng. Các tháp hầu như không có bia tháp mộ, chỉ có một bia Bi Quang tháp ký văn. Hai tháp Từ Quang và Huy Quang có biển ngạch được đắp bằng vôi vữa. Các tháp khác còn lại khó mà biết tháp ngạch tên gì.

Từ bên ngoài nhìn vào, tháp Bi Quang nằm ở vị trí thứ hai. Chúng ta biết tên ngôi tháp là do trên thân tháp có gắn tấm bia Bi Quang tháp ký văn. Mặt tấm bia hướng nhìn theo hướng chùa, tức hướng Nam. Bia được chế tác bằng một phiến đá phẳng, có kích thước chiều cao 68,5cm, chiều ngang 45,5cm. Bia không trang trí hoa văn, gồm có 13 hàng chữ Hán, mỗi hàng khoảng 19 chữ, chữ khắc theo lối chữ Khải, chữ có kích thước vừa và thưa, có bốn hàng cao hơn các dòng khác một chữ. Hàng đầu tiên là tiêu đề Bi Quang tháp ký văn được hạ thấp một chữ so với toàn văn và bài bia có tất cả 198 chữ Hán. Bia được soạn và lập ngày Trung hoán(4), tháng giữa đông, tức tháng 11 năm thứ 3 niên hiệu Tự Đức (1850). Bia do Sa-môn Giác Đạo Ngạn (1805-?)(5)chùa Cảnh Linh cung soạn. Hai hàng cuối hạ thấp ghi pháp tử, tức đệ tử của vị đại sư an táng trong lòng tháp. Có sáu vị ở hàng chữ “Sinh” mà chữ “Sinh” nằm trong kệ phái Tào Động Nam truyền(6). Sau đây xin cung lục phần chữ Hán, phiên âm và dịch chú.

悲光塔記文

夫塔者藏舍利而記姓名,仰彌髙而培不拔也。伏惟,尊師武族,南真次一人也。甲子誕生,七歲外親臨梵刹而一念皈依。三十餘頂禮金沙而三壇具足,承本師命住持于天壽寺焉。其天資明辨,地步魁梧,是法門之樑棟也。庚戌年十一月十四日取圓寂而茶毘之,仍建塔于寺之左。於是法子敘之予,予秉筆而銘曰:

夫生處世,四代浮虚。圓明一性,真際歸居。遂營翠堵,劫石奠固。眾等蟻忱,祈生淨土。

嗣徳叁年仲冬月中澣日。

景靈寺沙門覺道岸恭撰。

法子字生光,字生智,字生輝,字生耀,字生長,字生䏻。

Phiên âm:

Bi Quang tháp ký văn

Phù, tháp giả tàng xá-lợi nhi ký tính danh, ngưỡng di cao nhi bồi bất bạt dã. Phục duy: Tôn sư Vũ tộc, Nam Chân, Thứ Nhất nhân dã. Giáp Tý đản sinh, thất tuế ngoại thân lâm phạm sát nhi nhất niệm quy y. Tam thập dư đảnh lễ Kim Sa nhi tam đàn Cụ túc, thừa bản sư mệnh trụ trì vu Thiên Thọ tự yên. Kỳ thiên tư minh biện, địa bộ khôi ngô, thị pháp môn chi lương đống dã. Canh Tuất niên thập nhất nguyệt thập tứ nhật thủ viên tịch nhi trà-tỳ chi, nhưng kiến tháp vu tự chi tả. Ư thị, pháp tử tự chi dư, dư bỉnh bút nhi minh viết:

Phù sinh xử thế, tứ đại phù hư. Viên minh nhất tính, chân tế quy cư. Toại doanh Thúy-đỗ, kiếp thạch điện cố, chúng đẳng nghị thầm, kỳ sinh Tịnh độ.

Tự Đức tam niên, trọng đông nguyệt, Trung hoán nhật. Cảnh Linh tự Sa-môn Giác Đạo Ngạn cung soạn. Pháp tử tự Sinh Quang, tự Sinh Trí, tự Sinh Huy, tự Sinh Diệu, tự Sinh Trường, tự Sinh Năng.

Dịch nghĩa:

Tháp là nơi chứa xá-lợi mà ghi chép họ tên, trông lên càng cao(7) mà vun đắp chẳng sụt vậy. Cúi nghĩ, Tôn sư họ Vũ, người [xã] Thứ Nhất, [huyện] Nam Chân. Thầy sinh năm Giáp Tý (1804), năm bảy tuổi, người thân bên ngoại dẫn đến ngôi chùa mà một lòng quy y. Hơn ba mươi tuổi, đảnh lễ [Tổ] Kim Sa(8) mà [thụ] ba đàn giới Cụ túc, vâng lệnh Bản sư trụ trì chùa Thiên Thọ. Thầy thiên tư sáng suốt, dáng vẻ khôi ngô, là bậc rường cột của Phật pháp. Ngày 14 tháng 11 năm Canh Tuất (1850) viên tịch mà hỏa táng(9), bèn xây tháp ở phía trái ngôi chùa. Do vậy, pháp tử đến xin ta bài tựa, ta cầm bút mà viết bài minh rằng:

Xử thế ở đời, bốn đại(10) trống rỗng. Một tính tròn sáng, quay về cõi chân. Liền xây ngôi tháp(11), chọn đá bền chắc. Đại chúng lòng thành, cầu thầy Tịnh độ.

Ngày Trung hoán, tháng giữa đông, năm Tự Đức thứ 3. Sa-môn Giác Đạo Ngạn chùa Cảnh Linh(12) cung kính soạn. Pháp tử tự Sinh Quang, tự Sinh Trí, tự Sinh Huy, tự Sinh Diệu, tự Sinh Trường, tự Sinh Năng.

Luận giải Bi Quang tháp ký văn

Bia tháp Bi Quang đoạn đầu cho biết “Tháp là nơi chứa xá-lợi mà ghi chép họ tên” nhưng đọc cả bài văn bia, chúng ta không biết thiền sư an táng trong ngôi tháp có pháp danh, đạo hiệu là gì? Đây là nghi vấn mà chúng ta cần lý giải. May mắn cho chúng tôi khi đến chùa Thọ Vực được xem hai tư liệu chữ Hán có liên quan về vị thiền sư tháp Bi Quang, đó là Cúng tôn sư khoa (biệt khoa cúng Hòa thượng Tâm Tín) và bia Thiên Thọ tự bi ký.

Cúng tôn sư khoa(13) là văn bản sao tả trên giấy dó xấu ngả màu, gồm hai phần chính: phần đầu gồm sáu tờ với ba bài như Húy nhật tiến tôn sư cúng Phật sớ, Húy nhật cúng tôn sư sớ, và liệt kê lịch đại Tổ sư. Phần thứ hai là Cúng tôn sư khoa(14). Trong phần đầu, liệt kê lịch đại chư Tổ thì nhận ra có ba vị có cùng tên tháp Bi Quang. Ở đây, chúng tôi xin trưng dẫn hai hàng liên tiếp đều có tên là Bi Quang tháp như sau:

南無本師悲光塔清雲比丘諱道流明辨禅師圓智菩蕯。

前祖霞爛,南無悲光塔法諱字生智靑雲比丘肉身菩蕯。

Dịch nghĩa:

Kính lễ bản sư tháp Bi Quang Tỳ-kheo Thanh Vân húy là Đạo Lưu [hiệu] Minh Biện Thiền sư, Viên Trí Bồ-tát.

Tiền Tổ chùa Hà Lạn, kính lễ tháp Bi Quang Tỳ-kheo Thanh Vân pháp húy Sinh Trí nhục thân Bồ-tát.

Hai vị Tổ có trùng tên tháp Bi Quang đều thuộc Thiền phái Tào Động. Thiền sư Đạo Lưu Minh Biện thuộc thế hệ trước Thiền sư Sinh Trí Thanh Vân. Thiền sư Sinh Trí Thanh Vân, theo Cúng tôn sư khoa là bậc tiền Tổ chùa Hà Lạn(15), lại xuất hiện trên bia tháp Bi Quang, chùa Thọ Vực, nằm hai hàng cuối thuộc hàng pháp tử. Qua đây, xác định Thiền sư Đạo Lưu Minh Biện tháp Bi Quang trong Cúng tôn sư khoa chính là thiền sư an táng trong tháp chùa Thọ Vực, tháp mà có gắn tấm bia Bi Quang tháp ký văn. Một cứ liệu nữa giúp chúng ta xác định rõ hơn là tấm bia Thiên Thọ tự bi ký lập năm Ất Dậu, thuộc niên hiệu Hàm Nghi (1885). Bia ghi:

Khoảng niên hiệu Minh Mạng, người trong ấp bàn cùng thiền sư tự là Đạo Lưu làm cho rộng lớn [lầu chuông], lại xây thêm tầng lầu và hành lang trái phải, chưa lâu chỉnh trang lại/ 明命年間邑人謀諸禅僧字道流廣大之,又建層樓而左右廡未暇再整也”(16).

Trong bia, Thiền sư Đạo Lưu là vị trụ trì chùa Thiên Thọ có công xây dựng ngôi chùa dưới triều Minh Mạng (1820-1840). Kết hợp thông tin trên với phần danh sách chư Tổ trong Cúng tôn sư khoa, khẳng định vị an táng trong tháp Bi Quang chùa Thọ Vực chính là Thiền sư Đạo Lưu, tự Thanh Vân, hiệu Minh Biện.

Theo bia tháp, Thiền sư Đạo Lưu họ Vũ, người quê xã Thứ Nhất, huyện Nam Chân. Tra Đồng Khánh địa dư chí, Thứ Nhất là một trong bảy xã của tổng Cổ Da, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, Nam Định(17). Thôn Thứ Nhất nay thuộc xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cũ. Thiền sư Đạo Lưu sinh năm Giáp Tý tức năm 1804, xuất gia khá sớm. Trong bia chỉ có một lần nhắc đến “bản sư” nhưng đều không ghi pháp húy và đạo hiệu. Điều này cần phải làm sáng tỏ khi nghiên cứu bia tháp Bi Quang.

Tấm bia Từ Quang tháp bi văn cũng do Thiền sư Đạo Ngạn soạn vào năm Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846)(18). Sau niên đại là hai hàng khắc pháp tử, pháp tôn, chúng ta thấy tên tự Đạo Lưu xuất hiện trong hàng pháp tử, nằm ở vị trí thứ 3, sau hai vị Đạo Cẩn, Đạo Thịnh và trước Thiền sư Đạo Ngạn. Từ đây tìm được mối quan hệ huynh đệ giữa hai Thiền sư Đạo Lưu và Đạo Ngạn và quý ngài có cùng bản sư được lập tháp Từ Quang tại chùa Trà Lũ Trung (Linh Quang thiền tự). Bia tháp Từ Quang không ghi rõ pháp húy và đạo hiệu, chỉ ghi “Hoàng nghiêm sư 黃嚴師” tức vị thầy họ Hoàng(19). Theo Cảnh Linh tự Như Thường am ký cho biết:

Tăng Đạo Ngạn người họ Đặng, làng Ngọc Cục quận nhà. Tuổi ‘đội mũ’ khoác áo nâu, cắt tóc quy y với Thiền sư Lạc Đạo. Tuổi ‘nhi lập’ thụ ba đàn giới Cụ túc, thụ ký bởi Bồ-tát Phổ Tế/ 僧道岸本郡鄧家玉人也弱冠披緇削髪皈依于樂道禪師,而立具足三壇,授記于普濟菩蕯”(20).

Thiền sư Đạo Ngạn, theo bia Từ Quang tháp ký văn là đệ tử của nghiêm sư họ Hoàng, còn bia Cảnh Linh tự Như Thường am ký ghi rõ thầy ngài Đạo Ngạn là Lạc Đạo Thiền sư. Vậy, Hoàng nghiêm sư chính là Thiền sư Lạc Đạo mà tấm bia chùa Cảnh Linh ghi. Từ thông tin về Thiền sư Lạc Đạo, chúng tôi truy tìm thêm về pháp húy của ngài. Cúng tôn sư khoa được chúng ta giới thiệu ở trên, phần liệt kê chư Tổ có một vị ở vị trí thứ 4 trong danh sách:

Nam-mô Bi Quang tháp pháp húy Giác Điển Thanh Nhuận Tỳ-kheo Lạc Đạo Thiền sư Viên Minh Bồ-tát thiền tọa hạ/ 南無悲光塔法諱覺典清潤比丘樂道禅師园明菩蕯禅座下”.

Phần ghi chép này giúp xác định Thiền sư Lạc Đạo có pháp húy là Giác Điển, tự là Thanh Nhuận, Lạc Đạo là pháp hiệu của ngài. Khi viên tịch được môn đồ tôn kính dâng lên hiệu “Viên Minh Bồ-tát”. Cúng tôn sư khoa ghi nhầm tên tháp, đúng ra là Từ Quang tháp, chứ không phải là Bi Quang tháp(21). Đây là một lỗi, cần phải đính chính. Thiền sư Giác Điển, theo bia Từ Quang tháp bi văn thì ngài trụ trì chùa Sùng Ninh (nay là chùa Sùng Linh) xã Thọ Nghiệp. Khi đoàn chúng tôi rập các bia ở chùa Sùng Linh, có tấm bia Chung các ký lập năm Kỷ Tỵ, Gia Long thứ 8 (1809) có ghi tên Giác Điển Thiền sư cùng với dân xã dựng gác chuông(22).

Vì Thiền sư Đạo Ngạn là sư đệ của Thiền sư Đạo Lưu, mà Thiền sư Đạo Ngạn là đệ tử của Thiền sư Giác Điển nên chúng ta suy ra Thiền sư Giác Điển là bản sư của Thiền sư Đạo Lưu. Nhờ xác định vị thầy bản sư, nên lý giải câu trong bia tháp “Vâng lệnh bản sư trụ trì chùa Thiên Thọ”, tức Thiền sư Giác Điển lệnh cho Thiền sư Đạo Lưu về trụ trì chùa Thiên Thọ. Ý trong bia tháp cho thấy rằng, Thiền sư Giác Điển có mối quan hệ với chùa Thọ Vực. Nhờ kiểm tra ngạch tháp tại chùa Thọ Vực, ngôi tháp thứ hai từ bên trong tính ra, có biển ngạch đắp ba chữ Hán lớn “Từ Quang tháp” và phía sau lại đắp chữ nổi ba chữ “Đệ nhất tổ”, tức vị Tổ trong tháp Từ Quang là vị Tổ sư thứ nhất của chùa Thọ Vực. Nối kết các thông tin trên, xác định rõ tháp Từ Quang ở chùa Thọ Vực chính là tháp tưởng niệm Thiền sư Giác Điển. Một số nhà nghiên cứu khác, căn cứ phần cuối bia Thiên Thọ tự bi ký có liệt kê các ngày kỵ của bốn vị Tổ sư nhưng không đề pháp húy, đạo hiệu. Vị Tổ thứ nhất kỵ ngày 13 tháng 11, và tra vào Bi Quang tháp ký văn ghi Thiền sư Đạo Lưu tịch ngày 14 tháng 11 năm Canh Tuất (1850) và cho rằng Thiền sư Đạo Lưu là vị Tổ thứ nhất(23). Vấn đề này còn đang tranh luận. Theo thiển ý của chúng tôi, Thiền sư Giác Điển được tôn làm Tổ thứ nhất và vị Tổ thứ hai là Thiền sư Đạo Lưu. Chúng ta chỉ xét trên ngạch tháp tại vườn tháp chùa Thọ Vực. Phải nói thêm rằng, chùa Thọ Vực hiện vẫn chưa tìm được hết danh hiệu các thiền sư trụ trì thuở xưa, nên khó có thể tái lập phả hệ truyền đăng tại đây.

Tiếp đến, xác định Hòa thượng truyền giới và nơi tổ chức giới đàn mà bia tháp ghi như sau: “Hơn ba mươi tuổi đến đảnh lễ Kim Sa thụ ba đàn giới Cụ túc”. Kim Sa ở đây không phải là đạo hiệu của vị thiền sư, mà là tên ngôi chùa, nơi tổ chức giới đàn. Kim Sa có hai chùa trùng tên trong tư liệu chữ Hán. Một, chùa Kim Sa thuộc thôn Lãng Lăng xã Xuân Đài, huyện Xuân Trường mà nhiều vị ở địa phương khi tiếp cận bia tháp Bi Quang dễ ngộ nhận rằng chùa Kim Sa ở Lãng Lăng chính là ngôi chùa tổ chức giới đàn. Chúng tôi xem kỹ văn bia Kim Sa tự bi ký lập năm Tự Đức 10 (1857) không ghi chép vị thiền sư nào. Niên đại tấm bia cũng nhỏ hơn niên đại bia tháp Bi Quang. Do vậy, Kim Sa ở Lãng Lăng chưa thể là Kim Sa nơi tổ chức giới đàn. Hai, chùa Kim Sa xuất hiện trên bản in Vô lượng nghĩa kinh (kinh xếp). Lần in này do Tỳ-kheo Thanh Đoan, Thanh Nghĩa thực hiện năm Mậu Tý, niên hiệu Đồng Khánh 3 (1888), có ghi lại nhiều lần san khắc và nhất là khắc nguyên bài tựa do Sa-môn Thanh Nguyên, phái Tào Động soạn năm Bính Tý, Gia Long thứ 15 (1816). Mặt thứ 5 của tờ 3, hàng đầu có ghi: “Tỳ-kheo Khoan Nhân viện Cổ Đạo, chùa Kim Sa, xã Niệm Hạ, huyện Chân Định, Sơn Nam in/ 山南,真定縣,念下社,金沙寺,古道院,比丘寛仁刊”(24). Theo Đồng Khánh địa dư chí, xã Niệm Hạ tỉnh Nam Định có hai thôn là thôn Cổ Ninh và thôn Nội thuộc tổng Xuân Vũ, huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định(25). Sau này, thôn Niệm Hạ thuộc xã Bình Thanh, huyện Kiến Xương, Thái Bình. Hiện chưa rõ chùa Kim Sa còn tồn tại không.

Một góc vườn tháp chùa Thọ Vực

Một góc vườn tháp chùa Thọ Vực

Thiền sư Khoan Nhân là vị Thiền tổ phái Tào Động, có vai trò khá lớn trong tông môn. Ngài từng trụ trì các chùa Trấn Quốc, Quảng Bá (Hà Nội), Quảng Nghiêm (Hải Dương). Văn bản Hộ giới điệp/Đại Quang tự giới đàn lập ngày mùng 8 tháng 4 năm Bính Tuất (1826) cho biết: “Trải qua giờ Thìn ngày 8 tháng 4 năm Kỷ Mão, lễ thỉnh Hòa thượng Khoan Nhân Phổ Tế chùa Kim Sa đến am Trung Đạo chùa Đại Quang truyền giới Tỳ-kheo”(26). Năm Kỷ Mão ở trong văn bản là năm 1819 thuộc niên hiệu Gia Long triều Nguyễn. Hòa thượng Khoan Nhân gắn liền với chùa Kim Sa và được hiểu ngài là vị trụ trì ngôi chùa. Khi Thiền tổ Khoan Dực viên tịch, các giới đàn tổ chức ở các chùa trong tông môn Tào Động thường cung thỉnh Hòa thượng Khoan Nhân truyền giới. Do vậy, Thiền sư Đạo Lưu thọ giới Tỳ-kheo tại chùa Kim Sa, phải là chùa Kim Sa Niệm Hạ, chứ không phải chùa Kim Sa ở Lãng Lăng.

Thiền sư Đạo Lưu sinh năm Giáp Tý (1804), Thiền sư Đạo Ngạn sinh năm Ất Sửu (1805), tức Thiền sư Đạo Lưu lớn hơn Thiền sư Đạo Ngạn một tuổi. Xét tấm bia Cảnh Linh tự Như Thường am , Thiền sư Đạo Ngạn đến tuổi “Nhi lập” tức 30 tuổi thì thọ giới Cụ túc với Hòa thượng Khoan Nhân Phổ Tế. Điều đó nối kết với thông tin từ bia tháp Bi Quang và xác định cả Thiền sư Đạo Ngạn lẫn Thiền sư Đạo Lưu cùng thụ giới Cụ túc tại chùa Kim Sa với Hòa thượng Khoan Nhân Phổ Tế, nên lúc đó Thiền sư Đạo Lưu 31 tuổi mà bia ghi “hơn 30 tuổi”, vậy năm tổ chức giới đàn chùa Kim Sa phải là năm 1834, lúc Thiền sư Đạo Ngạn 30 tuổi, Thiền sư Đạo Lưu 31 tuổi. Thiền sư Khoan Nhân Phổ Tế vào năm 1819 đã về trụ trì chùa Kim Sa và đến năm 1834 thì ngài mở giới đàn tại Kim Sa truyền giới. Nói vậy để biết, Hòa thượng Khoan Nhân có vai trò khá lớn đối với tông môn Tào Động, cũng như là sức ảnh hưởng đối với Phật giáo miền Bắc triều Nguyễn.

Trong thời gian trụ trì chùa Thiên Thọ, Thiền sư Đạo Lưu cùng các vị hương lão đứng ra xây dựng mở rộng Tam quan, gác chuông cũng như tu sửa hành lang cho ngôi chùa mà tấm bia Thiên Thọ tự bi ký ghi chép. Lúc này, Thiên Thọ là nơi tổ chức các giới đàn truyền giới. Chúng tôi tìm thấy trong một bản chép lại văn bản Cấp bằng sự duyên lập năm Tự Đức thứ 30 (1877) cho Thiền sư Sinh Nghĩa, chùa Thánh Ân, phường Vị Xuyên, tỉnh Nam Định. Trong đó cho biết: “Tiếp đến thọ mười giới (giới Sa-di) với Hòa thượng Khoan Nhân chùa Thiên Thọ/繼詣天壽寺寛仁和尚受拾戒”(27). Thiền sư Sinh Nghĩa là đệ tử lớn của Thiền sư Đạo Ngạn, từng thọ giới tại chùa Thiên Thọ. Tiếc là Cúng tôn sư khoa và văn bản Cấp bằng sự duyên không ghi năm tổ chức giới đàn chùa Thiên Thọ.

Trong tủ sách chùa Ba Phong có bản in Phóng quang Bát-nhã Ba-la-mật kinh do chùa Hoa Lâm xã Khê Hồi, huyện Thượng Phúc san khắc ngày Tự tứ tháng 7 năm Kỷ Hợi, Minh Mạng thứ 20 (1839), sau quyển 3 tập 1 có phương danh pháp cúng chư Tăng. Trong đó ghi: “Huyện Giao Thủy: tự Phổ Tuệ chùa Linh Quang, Tỳ-kheo tự Giác Trân chùa Viên Quang, tự Phổ Đồng chùa Phúc Khê, tự Đạo Lưu chùa Thiên Thọ, tự Đạo Ngạn chùa Cảnh Linh, tự Đạo Lưu chùa Hưng Long, tự Thông Huy chùa Quảng Phúc, tự Chiếu Bình chùa An Hưng, tự Thông Lãm chùa Thiên Sơn, tự Đạo Tuân chùa Thanh Quang, tự Đạo Quang chùa Thần Quang Tây”(28). Có hai vị cùng tên tự là Đạo Lưu, ở hai chùa Thiên Thọ(29) và Hưng Long huyện Giao Thủy. Chúng tôi chỉ xác định được Thiền sư Đạo Lưu chùa Thiên Thọ cúng dường san khắc kinh Phóng quang Bát-nhã vào năm 1839. Đây cũng là một Phật sự mà thiền sư tham gia và là tư liệu ghi chép sớm về Thiền sư Đạo Lưu.

Qua các tư liệu chữ Hán, giúp chúng ta hiểu thêm về Bi Quang tháp ký văn và Thiền sư Đạo Lưu chùa Thọ Vực, dần dần làm sáng tỏ những phần “tối” của văn bia, lý giải được thông tin về các vị thiền sư như Khoan Nhân, Giác Điển, Đạo Ngạn, Đạo Lưu và tông môn Tào Động tại Nam Định. Xét mạch truyền pháp, Giác Điển là bản sư của bốn vị Đạo Cẩn, Đạo Thịnh, Đạo Lưu, Đạo Ngạn. Nhưng Thiền sư Giác Điển là đệ tử của vị nào? Đây cũng là nghi vấn mà Từ Quang tháp ký văn không ghi chép.

Mãi đến khi rập bia tháp chùa Thạch Cầu (Nguyệt Quang thiền tự) mới tiếp cận bia tháp Liễu Viên, tháp tưởng niệm xá-lợi lưỡi của Thiền tổ Đạo Nguyên Khoan Dực(30). Tấm bia gắn mặt trước tháp Liễu Viên, cho thấy Thiền tổ Khoan Dực có 27 vị đệ tử và 25 vị pháp tôn(31), trong đó, Giác Điển nằm vị trí thứ 11, sau Thiền sư Giác Vực (chùa Kiên Lao) và trước Thiền sư Giác Thông (chùa Phúc Lâm). Từ đây, định được mạch truyền pháp của các chùa phái Tào Động ở Nam Định, thuộc Tào Động Nam truyền. Mạch chính từ chùa Hồng Phúc (Hòe Nhai) truyền đến Đại Quang, Nguyệt Quang qua Sùng Phúc (Kiên Lao), Sùng Ninh (Thọ Nghiệp) tràn về Thiên Thọ (Thọ Vực), Cảnh Linh (Trà Lũ Bắc). Sau này, pháp phái chu lưu, truyền thừa mở rộng, hình thành nên nhiều chốn Tổ tại xứ Nam, trong đó, vẫn có công khai phái từ Thiền sư Đạo Lưu Minh Biện chùa Thọ Vực.

Chùa Thọ Vực là một trong những chốn Tổ có vai trò lớn trong việc truyền bá đạo Phật cũng như tông môn Tào Động. Dịch chú bia tháp Bi Quang, dần dần hiển lộ nhiều thông tin quý về Thiền sư Đạo Lưu Minh Biện (1804-1850). Từ bia tháp Bi Quang, đối chiếu các thư tịch và văn bia các chùa định danh các Thiền tổ như Hòa thượng Đạo Nguyên Khoan Dực, Hòa thượng Khoan Nhân Phổ Tế, Thiền sư Giác Điển, Thiền sư Đạo Ngạn, Thiền sư Sinh Trí, Thiền sư Sinh Nghĩa mà quý ngài đều thuộc phái Tào Động Nam truyền. Qua đó, hiểu biết thêm về truyền thừa Thiền phái Tào Động tại Nam Định, làm rõ mối quan hệ giữa tông môn Tào Động ở Hà Nội, Bắc Ninh với các thiền sư hành đạo tại Nam Định. Lắp ghép các sử liệu, định mối quan hệ tông môn sẽ dễ dàng thiết lập hệ phổ truyền thừa Thiền phái Tào Động tại Nam Định một cách chuẩn xác. Lần đầu tiên chúng tôi tiếp cận bia tháp Bi Quang cũng như văn khắc, thư tịch chùa Thọ Vực, qua các thông tin từ tư liệu làm sáng tỏ một vài nét về lịch sử ngôi chùa, và vị Tổ Đạo Lưu Minh Biện trùng hưng ngôi chùa triều Minh Mạng.

----------------------------------

(1)Trước ngày 1 tháng 7 năm 2025, thôn Thọ Vực thuộc xã Xuân Phong, huyện Xuân Trường, Nam Định. Hiện nay, chùa do Thượng tọa Thích Thanh Đoàn trụ trì. Thượng tọa đã hỗ trợ giúp đỡ đoàn chúng tôi khi đến rập bia các chùa ở huyện Xuân Trường, Hải Hậu và Nam Trực. Nhân đây, con xin tri ân Thượng tọa, Tăng chúng, đạo hữu Phật tử chùa Thọ Vực. Cùng đi với đoàn có đạo hữu Lê Tuấn Dũng, nghệ nhân chuyên rập các văn bia cùng chị Minh Ánh. Hai vị đồng hành cùng chúng tôi trong chuyến du ngoạn từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 28 tháng 7 năm 2025.

(2)Theo Trùng tu Thiên Thọ tự tịnh tạo chú hồng chung tự soạn khắc tháng 3 năm Giáp Thìn, Bảo Thái thứ 5 (1724).

(3)Địa danh Hoành Vực còn sử dụng trong Đồng Khánh địa dư chí, tỉnh Nam Định, là một trong 7 xã của tổng Trà Lũ, huyện Giao Thủy. Trong Thiên Thọ tự bi ký lập năm Ất Dậu (1885) thì tên Thọ Vực xã xuất hiện trong văn bia và dùng tên này cho đến ngày nay.

(4)Trung hoán giống Trung tuần; xưa một tháng có ba tuần, nên Trung hoán được hiểu là khoảng từ ngày 11 đến ngày 20 của tháng.

(5)Năm sinh được khắc trên tấm bia Tuệ Quang tháp ký lập năm Tự Đức 11 (1851) dựng sát tường sau khu tháp Tổ chùa Thanh Quang, thôn Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định cũ.

(6)Bài kệ như sau: “Tịnh trí thông tông, từ tính hải khoan. Giác đạo sinh quang, chính tâm mật hạnh. Nhân đức di lương, tuệ đăng phổ chiếu, hoằng pháp vĩnh trường” (Theo Ngũ tông yếu lược (AC. 458), tờ 6a, sách lưu Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội).

(7)Nguyên văn “ngưỡng di cao” sử dụng từ trong sách Luận Ngữ.

(8)Kim Sa: vốn chỉ tên ngôi chùa tọa lạc tại xã Niệm Hạ, huyện Chân Định, Kiến Xương. Đây là ngôi chùa do Hòa thượng Khoan Nhân Phổ Tế trụ trì. chứ không phải chùa Kim Sa ở Lãng Lăng, gần chùa Thọ Vực.

(9)Nguyên văn là trà-tỳ, dịch là hỏa táng. Đây là một hình thức an táng theo tinh thần Phật giáo.

(10)Tứ đại gồm đất, nước, gió và lửa, là bốn thành tổ hình thành nên vũ trụ và con người.

(11)Nguyên văn là Thúy-đỗ, còn gọi là Thúy-đỗ-ba hoặc Túy-đỗ-ba, là từ phiên âm của chữ Phạn, dịch là tháp.

(12)Chùa Cảnh Linh: còn gọi là chùa Bắc tọa lạc tại thôn Trà Lũ Bắc, xã Trà Lũ, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định cũ. Đây là tổ đình của Thiền phái Tào Động tại Nam Định, do Tổ sư Đạo Ngạn khai phái. Chùa mới được trùng tu toàn bộ từ tam quan, chính điện, nhà tổ, nhà mẫu cho đến các công trình phụ cận. Hiện chùa do Hòa thượng Thích Thanh Thuận trụ trì.

(13)Cúng tôn sư khoa, bản sao tả, không đề soạn giả và niên đại, lưu tại chùa Thiên Thọ (Thọ Vực) xã Xuân Giang, tỉnh Ninh Bình.

(14)Có lẽ phần thứ nhất được đóng nhầm, thông thường trong các khoa cúng Tổ, văn sớ thuộc về phần sau của khoa nghi.

(15)Chùa Hà Lạn: vốn tên tự là Trung Quang thiền tự, tọa lạc tại thôn Hà Lạn xã Hải Phúc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định cũ. Đây là một ngôi cổ tự, được các thiền sư phái Tào Động trụ trì.

(16)Dựa theo thác bản Thiên Thọ tự bi ký, bản rập do Lê Tuấn Dũng thực hiện ngày 18 tháng 7 năm 2025, hiện lưu tại chùa Ba Phong, Quảng Nam.

(17)Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin dịch (2003), Đồng khánh địa dư chí, tập 1, NXB.Thế Giới, Hà Nội, tr. 310.

(18)Bia được gắn trên thân tháp Từ Quang tại vườn tháp chùa Linh Quang, Trà Lũ Trung. Thiền sư Giác Điển không trụ trì chùa Linh Quang, nhưng ngài quê tại Trà Lũ Trung nên được môn đồ lập tháp kỷ niệm. Chính bia “Từ Quang tháp bi văn” ghi lại thông tin trên. Lần trùng tu ngôi tháp cách đây không lâu, thợ hồ tô sát với tiêu đề bia, khi rập khó mà lấy hàng chữ tiêu đề. Người soạn bia đề “Đạo Ngạn” cũng chính là Thiền sư Giác Đạo Ngạn soạn bia tháp Bi Quang.

(19)Nhiều người cho tên ngài là Hoàng Nghiêm, nghe không thích hợp.

(20)Dựa vào Cảnh Linh tự Như Thường am ký tại chùa Cảnh Linh (Trà Lũ Bắc), thôn Bắc, xã Xuân Hưng, tỉnh Ninh Bình.

(21)Bia Từ Quang tháp ký văn xác định Thiền sư Giác Điển viên tịch được môn đồ lập tháp Từ Quang an táng linh cốt cho Thiền sư Giác Điển, chứ không phải tháp Bi Quang. Bi Quang là tháp hiệu của Thiền sư Đạo Lưu. Hai vị dùng chữ “Từ - Bi” để đặt chữ đầu của tên tháp.

(22)Theo thác bản lưu tại chùa Ba Phong, Quảng Nam.

(23)Tham khảo bài “Thiền sư Giác Đạo Ngạn” trên trang Facebook Đỗ Trác. Bài viết của nhà nghiên cứu Đỗ Trác có nhiều giá trị, trưng dụng nhiều tư liệu Hán Nôm quý. Chúng tôi vẫn thường tham khảo khi viết bài nghiên cứu này. Nhân đây, xin tri ân bác đã giúp đỡ nhiều, nhất là chỉ địa điểm các chùa có văn bia để chúng tôi lên chương trình làm việc ổn định.

(24)Vô lượng nghĩa kinh, tự, tờ 3, mặt 5, hàng 1-2.

(25)Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe-Papin dịch (2003),Đồng Khánh địa dư chí, tập 1, NXB.Thế Giới, Hà Nội, 2003, tr.331.

(26)Đồng Dưỡng, “Phát hiện bản giới điệp của Thiền sư Đạo Lịch tại Hòe Nhai”, Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 143, 15-12-2011, tr.13.

(27)Thiền sư Khoan Nhân được cung thỉnh làm Hòa thượng truyền giới tại giới đàn chùa Thiên Thọ, chứ ngài không phải là vị trụ trì chùa. Lúc này, chùa do Thiền sư Đạo Lưu trụ trì và người thiết lập giới đàn.

(28)Phóng quang Bát-nhã Ba-la-mật kinh, quyển 3, tờ 1b hậu tiền. Bản lưu chùa Ba Phong, Quảng Nam.

(29)Chúng tôi cho rằng, phần công đức có thể khắc nhầm từ Đạo Phức thành Đạo Lưu. Căn cứ Cúng Tổ sư khoa (biệt khoa của Thiền sư Đạo Phức) thì lúc này Thiền sư Đạo Phức trụ trì chùa Hưng Long.

(30)Đoàn chúng tôi đến chùa Thạch Cầu vào buổi sáng ngày 28 tháng 7 năm 2025. Rập được 4 bia tháp và 1 mặt minh chung. Xin niệm ân đến Ni sư trụ trì cùng Ni chúng chùa Thạch Cầu.

(31)Tấm bia mặt trước không đề tên, ghi chép sơ lược về Hòa thượng Đạo Nguyên Khoan Dực, chùa Nguyệt Quang được trùng tu. Phần chiếm nhiều nhất là danh sách pháp tử, pháp tôn.

(NSGN 354)

Pháp Đăng viện, chiều ngày 15 tháng 8 năm 2025

Hậu học Thích Đồng Dưỡng/Nguyệt san Giác Ngộ

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/bia-thap-bi-quang-chua-tho-vuc-post77343.html