Bình dân học vụ số - Hành trình khai trí của Đảng: Bài 4: 'Đã đánh trống phải đánh cả dùi'

Xây dựng thành công 'chính quyền số', 'kinh tế số', và 'xã hội số', nền tảng cốt lõi vẫn là 'con người số'. Để phong trào 'Bình dân học vụ số' thành công, phải quyết tâm 'đánh trống, đánh cả dùi'. Chỉ khi mọi người dân, từ nông thôn đến thành thị, từ người già đến người trẻ đều được trang bị kiến thức, làm chủ công nghệ và tự tin bước vào kỷ nguyên số, mới thực sự tạo ra một nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Thách thức từ khoảng cách số và nhận thức

Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra với tốc độ vũ bão, và chuyển đổi số được Đảng, Nhà nước xác định là một trong ba trụ cột chiến lược phát triển quốc gia. Tuy nhiên, để xây dựng thành công “chính quyền số”, “kinh tế số”, và “xã hội số”, nền tảng cốt lõi vẫn là “con người số”...

Các "đại sứ số" hướng dẫn người dân cài đặt, sử dụng ứng dụng VNeID. Ảnh: Trần Hoàn

Các "đại sứ số" hướng dẫn người dân cài đặt, sử dụng ứng dụng VNeID. Ảnh: Trần Hoàn

Trong hơn 5 tháng qua, những lớp học phổ cập về chuyển đổi số liên tục được khai giảng trên nhiều địa bàn dân cư, thu hút không chỉ người trẻ, mà cả những người tuổi cao cũng nhiệt tình tham gia. Đây là tín hiệu đáng mừng, cho thấy phong trào đã nhận được sự đón nhận của người dân. Tuy nhiên, hành trình "học vụ số" đang phải đối diện với nhiều thách thức.

Cụ thể, hiện cả nước vẫn còn khoảng 20 triệu người dân chưa được trang bị kỹ năng số cơ bản. Khoảng cách này càng lớn hơn đối với những nhóm yếu thế như: người cao tuổi, nông dân, công nhân và người dân tộc thiểu số, dẫn tới tâm lý thờ ơ, ngại học hỏi.

Thanh niên là lực lượng nòng cốt góp phần hỗ trợ người cao tuổi tiếp cận số hóa nhanh hơn.

Thanh niên là lực lượng nòng cốt góp phần hỗ trợ người cao tuổi tiếp cận số hóa nhanh hơn.

Một báo cáo của WHO (2025) nhấn mạnh rằng, việc thiếu kỹ năng số là một trong những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận công nghệ của người cao tuổi. Đối với người dân vùng sâu, vùng xa, Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) cho biết, tỷ lệ tiếp cận Internet ở nông thôn thấp hơn thành thị gần 30%. Báo cáo Chuyển đổi số quốc gia mới đây cũng nêu rõ: các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến và ngân hàng số thấp.

Người dân vùng cao hào hứng ứng dụng chuyển đổi số trên điện thoại thông minh. Ảnh: ITN

Người dân vùng cao hào hứng ứng dụng chuyển đổi số trên điện thoại thông minh. Ảnh: ITN

Chia sẻ về nội dung này, đại diện Sở Khoa học và Công nghệ một số tỉnh miền núi phía Bắc cho biết: rào cản lớn nhất đến từ chính con người, từ tâm lý e ngại thay đổi trước những điều mới mẻ. Ngay cả một bộ phận cán bộ, công chức cũng chưa thuần thục kỹ năng số.

Khoảng cách số cũng là một thách thức lớn. Dù đã có nhiều nỗ lực, sự chênh lệch về hạ tầng mạng và thiết bị công nghệ giữa thành thị và vùng sâu, vùng xa, hải đảo vẫn còn rất lớn. Đặc biệt, tại các khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, rào cản ngôn ngữ càng khiến việc tiếp cận công nghệ thêm gian nan. Mặt khác, bài toán kinh phí đầu tư cho hạ tầng, thiết bị và đào tạo cũng là vấn đề khó khăn với các địa phương còn nghèo.

Chưa kể, không gian mạng càng phát triển, các nguy cơ về an ninh mạng và tin giả ngày càng phức tạp. Lừa đảo trực tuyến, đánh cắp dữ liệu cá nhân và sự bùng nổ của tin giả là những hiểm họa tiềm ẩn, khiến người dân lo lắng. Đây cũng là một trong những " rào cản" khiến nhiều người còn e dè, ngại công nghệ, đòi hỏi cần có những giải pháp đột phá tháo gỡ, tiến tới xóa mù công nghệ cho toàn dân.

Bài học từ Quốc hội số: mô hình "may đo" và chiến lược bền vững

Thực tế trong nước và kinh nghiệm quốc tế cho thấy những con đường khả thi để vượt qua khó khăn, thách thức trên. Nhiều quốc gia như Estonia, Singapore, hay Ấn Độ đã có những chiến lược thành công. Estonia xây dựng chính phủ điện tử từ hai thập kỷ trước, cho phép người dân có thể thực hiện mọi thủ tục trực tuyến. Singapore đưa kỹ năng số vào chương trình giáo dục quốc gia từ cấp tiểu học. Còn Ấn Độ với nền tảng số Aadhaar đã giúp hàng trăm triệu người nông thôn tiếp cận dịch vụ ngân hàng và phúc lợi.

Kỳ thi tập trung đánh giá kết quả khóa học trực tuyến về kỹ năng số, chuyển đổi số và ứng dụngtrí tuệ nhân tạo (AI) của Công an TP. Hà Nội.

Kỳ thi tập trung đánh giá kết quả khóa học trực tuyến về kỹ năng số, chuyển đổi số và ứng dụngtrí tuệ nhân tạo (AI) của Công an TP. Hà Nội.

Với quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước và sức mạnh toàn dân, chúng ta hoàn toàn có thể làm được điều tương tự như cách đã biến một dân tộc mù chữ thành dân tộc biết chữ chỉ trong vài năm.

Quốc hội đã tiên phong triển khai phong trào "Bình dân học vụ số". Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, TS. Trần Văn Khải, để phong trào có sức lan tỏa, thành công và hiệu quả, Quốc hội đã áp dụng một mô hình huấn luyện kỹ năng số được “may đo” riêng cho từng nhóm đối tượng, từ đại biểu đến cán bộ, công chức. Thay vì một chương trình chung, mô hình này tập trung vào việc xây dựng khung kiến thức, kỹ năng số với 4 cấp độ (cơ bản, trung cấp, nâng cao, chuyên sâu), bảo đảm "đúng người, đúng nhu cầu".

Một buổi học kỹ năng số của cán bộ Văn phòng Quốc hội. Ảnh: Hải Thanh

Một buổi học kỹ năng số của cán bộ Văn phòng Quốc hội. Ảnh: Hải Thanh

Trên cơ sở khung chuẩn này, chương trình tập huấn được thiết kế linh hoạt qua một nền tảng học trực tuyến dành riêng cho Quốc hội, kết nối liên thông với nền tảng “Bình dân học vụ số” quốc gia và tích hợp định danh VNeID để theo dõi, xác nhận kết quả học tập.

Để giải quyết hạn chế về thời gian, Quốc hội đã đổi mới phương pháp học tập, tạo ra các bài giảng ngắn gọn dưới 5 phút trên nền tảng trực tuyến riêng. Mô hình đào tạo chú trọng tính thực tiễn: "dạy cái gần, học cái cần", giúp người học có thể áp dụng ngay những kiến thức đã tiếp thu vào công việc. Đến nay, chương trình tập huấn đang từng bước triển khai tới tất cả đại biểu, công chức.

Để duy trì sự bền vững của phong trào, tránh tình trạng "đánh trống bỏ dùi" sau một thời gian phát động, Kế hoạch 39-KH/ĐUQH của Đảng ủy Quốc hội yêu cầu sau giai đoạn cao điểm phải tổng kết, đánh giá kết quả và tiếp tục duy trì, cập nhật chương trình huấn luyện trong những năm sau 2026. "Để bảo đảm điều đó, chúng tôi đã đầu tư xây dựng hạ tầng học tập số bền vững: toàn bộ khung kỹ năng, giáo trình, nền tảng trực tuyến được lưu giữ và sẽ liên tục cập nhật bổ sung khi có công nghệ, kiến thức mới", TS. Trần Văn Khải cho biết.

Những kinh nghiệm từ Quốc hội cho thấy, để phong trào "Bình dân học vụ số" thành công trên quy mô toàn quốc, cần những giải pháp đồng bộ và quyết liệt. Cụ thể, xây dựng khung năng lực số và chương trình đào tạo "may đo": cần có một khung tiêu chuẩn về kỹ năng số cho từng nhóm đối tượng (người cao tuổi, nông dân, công nhân, cán bộ...). Dựa vào đó, các địa phương và tổ chức sẽ thiết kế chương trình học phù hợp, linh hoạt với nhiều hình thức khác nhau, từ lớp học trực tiếp đến video hướng dẫn trên các nền tảng mạng xã hội.

Các thành viên Tổ chuyển đổi số cộng đồng phường Phú Nghĩa, TP. Hà Nội giúp người dângiải quyết thủ tục hành chính trên ứng dụng VNeID. Ảnh: phunghia.hanoi.gov

Các thành viên Tổ chuyển đổi số cộng đồng phường Phú Nghĩa, TP. Hà Nội giúp người dângiải quyết thủ tục hành chính trên ứng dụng VNeID. Ảnh: phunghia.hanoi.gov

Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp tục đầu tư mạnh mẽ để Internet tốc độ cao, giá cước hợp lý phủ sóng toàn quốc, đặc biệt là các "vùng lõm" thông tin ở miền núi, hải đảo. Đây là điều kiện tiên quyết để không ai bị bỏ lại phía sau. Đặc biệt, điều quan trọng nhất là phải khơi dậy tinh thần ham học hỏi. Theo TS. Khải, “cần đưa tiêu chuẩn kỹ năng số vào bộ tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức và có các chính sách khen thưởng kịp thời”. Điều này không chỉ khuyến khích cá nhân, mà còn tạo ra một văn hóa tự học và tự trau dồi bền vững trong toàn xã hội.

Ngoài ra, phong trào "Bình dân học vụ số" cần được phối hợp chặt chẽ với các chương trình chuyển đổi số quốc gia, từ chính quyền số, kinh tế số đến xã hội số, để tránh lãng phí nguồn lực và tạo ra hiệu ứng cộng hưởng tích cực.

Tin rằng, với những giải pháp đồng bộ trên, nếu được triển khai thống nhất sẽ tạo nên sức mạnh cộng hưởng to lớn. Khi ấy, "Bình dân học vụ số" không chỉ là bước tiếp nối phong trào khai dân trí năm xưa, mà còn là nền tảng để Việt Nam vững vàng tiến bước trong kỷ nguyên số.

Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Trần Văn Khải:

Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Trần Văn Khải.

Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Trần Văn Khải.

Phát động phong trào “Bình dân học vụ số”, Tổng Bí thư Tô Lâm nhắc lại bài học từ phong trào xóa mù chữ sau Cách mạng tháng Tám, yêu cầu “mỗi người dân, không kể tuổi tác, địa vị hay trình độ, ai thiếu hụt kiến thức, kỹ năng về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thì đều có trách nhiệm phải học tập để bù đắp”.

Việc đào tạo, tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng số cho ĐBQH, các cán bộ trong hệ thống Quốc hội là bắt buộc. Khi Đảng xác định chuyển đổi số là đột phá chiến lược hàng đầu, Quốc hội phải tiên phong trang bị kiến thức, kỹ năng số cho đội ngũ của mình. Điều này bảo đảm mỗi đại biểu, cán bộ, công chức làm chủ công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng kỳ vọng của Nhân dân về một Quốc hội hiện đại, luôn bắt nhịp với thời đại số.

Nhóm phóng viên Ban Công tác HĐND và PVTT

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/binh-dan-hoc-vu-so-hanh-trinh-khai-tri-cua-dang-bai-4-da-danh-trong-phai-danh-ca-dui-10384313.html