Bộ Công thương đề xuất hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế để phát triển xe 'xanh'
Bộ Công thương xác định, đến năm 2030, các dòng xe động cơ đốt trong vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn trong cả sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu. Còn đến năm 2045 trở đi sẽ tăng trưởng mạnh xe 'xanh'.
Nội dung này được Bộ Công thương nêu trong dự thảo quyết định của Thủ tướng về "Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" đang được Bộ lấy ý kiến.
Chiến lược được xây dựng trong bối cảnh, hiện nay xu hướng toàn cầu đang tập trung nghiên cứu và phát triển các loại xe ô tô thân thiện với môi trường, xe "xanh". Với yêu cầu bảo vệ khí hậu và sự hỗ trợ của chính phủ, một số nước đã có xu hướng chuyển dần từ ôtô động cơ đốt trong sang các mẫu xe điện và xe lai hybrid.
Vì thế, quan điểm phát triển ngành công nghiệp ô tô được xác định trên cơ sở đi tắt, đón đầu các xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ về sản xuất và tiêu dùng từ xe sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang xe tiết kiệm nhiên liệu, xe điện hóa, xe hybrid, xe sử dụng năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh học và nhiên liệu xanh mới khác... nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải CO2 theo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26.
Phát triển ngành ô tô gắn liền công nghiệp hỗ trợ
Bộ Công thương xác định, giai đoạn đến năm 2030, các dòng xe động cơ đốt trong vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn trong cả sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu.
Còn tầm nhìn đến năm 2045 và những năm tiếp theo được xác định sẽ là giai đoạn tăng trưởng mạnh của lượng xe điện hóa, xe hybrid, xe sử dụng năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh học và nhiên liệu xanh mới... và tiến dần đến sự ổn định của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Trong đó, xe điện hóa, xe hybrid, xe sử dụng năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh học và nhiên liệu xanh mới... sẽ thay thế hoàn toàn 80,5% xe sử dụng động cơ đốt trong vào năm 2050.
Về phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô, dự thảo đề xuất mục tiêu, giai đoạn đến năm 2030, bắt đầu sản xuất được một số chi tiết quan trọng trong bộ phận truyền động, hộp số, động cơ (nhất là cho xe khách và xe tải nhẹ), từng bước tham gia hệ thống cung ứng sản phẩm hỗ trợ trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành công nghiệp ô tô thế giới. Đủ khả năng cung ứng 55-60% (về giá trị) linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp ô tô trong nước.
Tầm nhìn đến năm 2045, tiếp tục phát triển công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất ô tô, phấn đấu trở thành nhà cung cấp quan trọng nhiều loại linh kiện, phụ tùng cho ngành công nghiệp ô tô khu vực và thế giới. Đáp ứng trên 80-85% (tính theo giá trị) nhu cầu về linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp ô tô trong nước.
Hỗ trợ tài chính và ưu đãi thuế cho xe "xanh"
Với định hướng trên, Bộ Công thương đề xuất một số giải pháp cụ thể theo nhóm sản phẩm.
Với nhóm giải pháp phát triển xe thân thiện với môi trường - xe điện, xe hybrid, xe hydrogen, giải pháp Bộ Công thương đề xuất là, hỗ trợ tài chính và ưu đãi thuế, áp dụng các chính sách giảm thuế nhập khẩu cho linh kiện sản xuất.
Nhóm giải pháp phát triển xe thương mại (xe tải, xe Buýt): Khuyến khích nghiên cứu và phát triển động cơ tiết kiệm nhiên liệu và giảm phát thải cho xe tải và xe buýt; khuyến khích sử dụng nhiên liệu sạch, sử dụng xe điện.
Nhóm giải pháp phát triển xe cá nhân, khuyến khích sản xuất trong nước. Áp dụng các chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe hơi trong nước.
Còn với nhóm giải pháp về cung cấp linh kiện và phụ tùng cho ngành ô tô, cần chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ. Khuyến khích đầu tư vào các nhà máy sản xuất linh kiện và phụ tùng ô tô bằng các chính sách ưu đãi thuế và hỗtrợ tài chính như: Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phụ trợ tiếp cận với các doanh nghiệp sản xuất ô tô lớn thông qua các chương trình kết nối doanh nghiệp; Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất thông qua các chương trình hợp tác quốc tế...
Dự thảo đặt ra mục tiêu, đến năm 2030, tăng trưởng thị trường xe ô tô trong nước giai đoạn đến năm 2030 đạt tốc độ bình quân khoảng từ 14-16%/năm, tổng lượng xe tiêu thụ đạt khoảng 1.000.000-1.100.000 chiếc.
Tỷ lệ xe điện và xe sử dụng hybrid, xe sử dụng năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh học và nhiên liệu xanh mới khác chiếm khoảng 18-22%.
Tổng sản lượng xe sản xuất và lắp ráp trong nước đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 18-20%/năm, sản lượng đạt khoảng 600.000-700.000 chiếc vào năm 2030.
Đến năm 2045:Thị trường tiêu thụ xe ô tô trong nước tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2031-2045 là 11-12%/năm, tổng lượng xe đạt gần 5.000.000-5.700.000 chiếc. Trong đó, xe đến 9 chỗ chiếm khoảng 68-70%, từ 10 chỗ trở lên chiếm 5-6%, xe tải chiếm 23-24%, xe chuyên dụng chiếm khoảng 2-3%.
Tỷ lệ xe điện và xe sử dụng hybrid, xe sử dụng năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh học và nhiên liệu xanh mới khác đạt gần 4.300.000-4.400.000 chiếc, chiếm khoảng 80-85%.
Tổng sản lượng xe sản xuất và lắp ráp trong nước tăng trưởng bình quân hàng năm là 13-14%/năm trong giai đoạn 2031-2045, sản lượng đạt gần 4.000.000-4.600.000 chiếc, chiếm khoảng 80-85% so với nhu cầu nội địa.