Bộ Nội vụ hướng dẫn việc tính tiền lương làm thêm giờ tại các doanh nghiệp
Tiền lương làm thêm giờ được xác định dựa trên tiền lương thực trả của công việc đang làm của người lao động, chia cho thời gian làm việc thực tế của họ do doanh nghiệp lựa chọn...

Ảnh minh họa.
Bộ Nội vụ vừa có hướng dẫn phản hồi ý kiến của doanh nghiệp liên quan đến việc tính tiền lương làm thêm giờ theo Nghị định số 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.
Gửi phản ánh đến Bộ Nội vụ, bà Nguyễn Kim Ngân nêu trong quá trình triển khai thực hiện các quy định pháp luật về lao động, công ty của bà có vướng mắc khi xác định tiền lương giờ thực trả của công việc đang làm vào ngày làm việc bình thường, để tính tiền lương làm thêm giờ.
Bà Ngân cho biết theo nội quy công ty đã được phê duyệt với Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh, công ty của bà Ngân đang chọn công chuẩn là 26 và đơn giá để tính tiền công ngày như sau: Tiền lương tháng chia 26 ngày và đơn giá tiền lương theo ngày bằng đơn giá ngày chia 8 giờ làm việc.
Bà Ngân hỏi nếu áp dụng quy định nêu trên, và nội quy công ty đã được duyệt, áp dụng tính lương tăng ca cho công nhân viên tại tháng 2 (tháng chỉ có 24 công), khi tính đơn giá tiền lương ngày, công ty bà nên chia cho 24 (số ngày công thực của tháng) hay 26 (công chuẩn mà công ty lựa chọn và đăng ký trong nội quy).
Theo bà Ngân, công ty bà đã gửi công văn đề nghị cơ quan quản lý trực tiếp hướng dẫn nhưng đến nay chưa nhận được phản hồi. Do đó, công ty mong muốn cơ quan chức năng hướng dẫn cụ thể để bảo đảm việc tính công, tính lương cho người lao động phù hợp với các quy định pháp luật liên quan.
Phản hồi về nội dung trên, Bộ Nội vụ cho biết vấn đề doang nghiệp quan tâm được thực hiện căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 55 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.
Theo quy định, tiền lương giờ thực trả của công việc đang làm vào ngày làm việc bình thường, được xác định bằng tiền lương thực trả của công việc đang làm của tháng, hoặc tuần, hoặc ngày, mà người lao động làm thêm giờ, chia cho tổng số giờ thực tế làm việc tương ứng trong tháng hoặc tuần, hoặc ngày người lao động làm thêm giờ (không quá số ngày làm việc bình thường trong tháng và số giờ làm việc bình thường trong 1 ngày, 1 tuần theo quy định của pháp luật mà doanh nghiệp lựa chọn và không kể số giờ làm thêm).
Căn cứ quy định nêu trên, tiền lương làm thêm giờ được xác định dựa trên tiền lương thực trả của công việc đang làm của người lao động, chia cho thời gian làm việc thực tế của người lao động do doanh nghiệp lựa chọn.
Bộ Nội vụ đề nghị công ty căn cứ quy định nêu trên để thực hiện. Trường hợp cần thiết công ty liên hệ với cơ quan quản lý lao động ở địa phương để xem xét trả lời theo thẩm quyền.
Bộ luật Lao động 2019 (Điều 98) quy định, người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương thực trả theo công việc đang làm như sau: Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%; vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%.
Riêng vào ngày nghỉ lễ, Tết, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, Tết, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.
Trường hợp người lao động làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương, hoặc tiền lương thực trả theo công việc của ngày làm việc bình thường.
Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm, thì ngoài việc trả lương theo quy định trên, họ còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương, hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày của ngày làm việc bình thường, hoặc của ngày nghỉ hằng tuần hoặc của ngày nghỉ lễ, Tết.
Điều 107, Bộ Luật Lao động 2019 quy định về làm thêm giờ như sau:
1. Thời gian làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể, hoặc nội quy lao động.
2. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây:
a) Phải được sự đồng ý của người lao động.
b) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 1 ngày. Trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần, thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 40 giờ trong 1 tháng.
c) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ trong 1 năm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 1 năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp sau đây:
a) Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản.
b) Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước.
c) Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời.
d) Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước, do hậu quả thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất.
đ) Trường hợp khác do Chính phủ quy định.
4. Khi tổ chức làm thêm giờ theo quy định tại khoản 3 Điều này, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.