Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên giải trình, làm rõ về chính sách phát triển năng lượng
Chiều 4/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã giải trình, làm rõ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030.
Phải có những cơ chế, chính sách vượt trội
Chiều 4/12, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận ở tổ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại phiên họp
Phát biểu tại phiên họp tổ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trân trọng cảm ơn các ý kiến thảo luận, trao đổi, chia sẻ và những ý kiến góp ý rất thẳng thắn và trách nhiệm đối với dự thảo Nghị quyết.
Báo cáo thêm với các đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của đất nước trong những năm tới, mục tiêu phấn đấu tăng trưởng GDP phải đạt từ 10% trở lên.
Theo lý thuyết, để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế như vậy, thì tăng trưởng điện năng phải ở hệ số từ 1,3 đến 1,5, tùy thuộc theo việc ứng dụng công nghệ trong quá trình phát triển. Chưa kể, nhu cầu sẽ tăng thêm rất nhanh do chuyển đổi số, ứng dụng AI hoặc hình thành các trung tâm cơ sở dữ liệu. Việc này tiêu tốn rất nhiều năng lượng và đều là năng lượng sạch.
“Cho nên, nhu cầu năng lượng của đất nước trong những năm tới, nhất là 5 năm tới đòi hỏi phải tăng một cách đột biến mới đáp ứng được yêu cầu” - Bộ trưởng nói.
Quy hoạch điện VIII và Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng đã xác định rất rõ để đáp ứng được các mục tiêu của Đảng, Nhà nước đặt ra cho những năm tới về tăng trưởng kinh tế thì tổng công suất các loại hình nguồn điện trong 5 năm tới của chúng ta phải đạt từ 2,5 - 3 lần so với hiện nay.
Hiện, tổng công suất đặt khoảng 90.000 MW, nhưng trong 5 năm tới sẽ phải đạt ở mức khoảng từ 190.000 - 254.000 MW. Như vậy, gấp từ 2,5 - 3 lần gồm tất cả các loại nguồn điện. Đồng thời, theo hướng ngày càng sạch hơn để làm sao đến năm 2050, chúng ta đạt được mục tiêu trung hòa carbon như cam kết ở COP26.

Quốc hội thảo luận ở tổ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
“Như vậy, đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn. Mỗi năm, chúng ta cần khoảng 18 - 20 tỷ USD cho phát triển cả nguồn và truyền tải. Chúng ta cần công nghệ hiện đại để quản trị thông minh và đáp ứng được nhu cầu tăng thêm một cách đột biến” - Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhận định.
Bởi nếu chúng ta vẫn dùng công nghệ hay biện pháp truyền thống thì không thể nào quản trị vận hành được hệ thống điện khi tăng gấp 3 lần công suất chỉ trong vài năm tới. Tuy nhiên, công nghệ mới cũng phải nhập, do chúng ta chưa làm chủ được.
Đặc biệt, để có được các nhà đầu tư quan tâm, cùng với chúng ta giải quyết vấn đề khó khăn này thì cơ chế chính sách phải thông thoáng, hấp dẫn và tháo gỡ được những khó khăn của thực tiễn.
Bộ trưởng nhắc lại, khi sửa Luật Điện lực năm 2024, Bộ trưởng cũng đã báo cáo Quốc hội về sự cấp bách của việc sửa Luật. Nếu không kịp thời sửa Luật Điện lực lúc đó, chúng ta không giải quyết được những câu chuyện trong thời gian qua. Nhưng đến giờ này, Luật Điện lực cũng như các luật có liên quan (gọi là quy định hiện hành) chưa thể giải quyết được “bài toán” tăng gấp 3 lần công suất và phải điều chỉnh để bảo đảm nguồn điện sạch của chúng ta trong những năm tới.
Vì thế, Bộ Chính trị đã thảo luận và ban hành Nghị quyết 70. Nghị quyết 70 đã bao trùm, xem xét, xử lý những vấn đề vướng mắc của thực tiễn và Nghị quyết của Quốc hội hôm nay là thể chế hóa về mặt pháp luật những chủ trương Bộ Chính trị đã ban hành.
“Nghị quyết của Bộ Chính trị đưa ra chủ trương, còn chúng ta đang thể chế về mặt nhà nước, đó là đưa ra những cơ chế có tính vượt trội, giúp giải quyết được những vướng mắc của các quy định hiện hành” - Bộ trưởng nêu rõ, đồng thời cho hay, Nghị quyết này có hiệu lực trong 5 năm, từ năm 2026 cho đến ngày 1/1/2031.
Những điều được thể hiện trong Nghị quyết đều thể hiện sự vượt trội so với lập pháp hiện hành. Các cơ chế, chính sách vượt trội xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và phải có cơ chế chính sách hấp dẫn mới có nhà đầu tư và đủ sức tháo gỡ những khó khăn của thực tại.
Đồng tình với đại biểu Quốc hội về khái niệm "điều chỉnh quy hoạch linh hoạt" - tức là được phép điều chỉnh trên cơ sở vận dụng linh hoạt Luật Quy hoạch, Bộ trưởng nhấn mạnh, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ lưu ý chi tiết này. Đây là cơ chế điều chỉnh linh hoạt.
Về vấn đề điện gió ngoài khơi, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho rằng, cần phải được xem xét để vận dụng Điều 42 Luật Dầu khí. Tức là, các dự án điện gió ngoài khơi phải được thực hiện theo chuỗi và cấp quyết định là Chính phủ.
Từng bước tự chủ năng lượng quốc gia
Liên quan đến một số ý kiến đại biểu nêu về cơ chế thanh toán, chuyển đổi ngoại tệ, nhập khẩu điện hay điện hạt nhân, điện hydrogen… Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định, Nghị quyết lần này cũng như các đạo luật được xây dựng theo tinh thần Nghị quyết 66 đều mang tính định hướng ở tầm khung. Một số vấn đề đã được quy định cụ thể, nhưng nhiều nội dung vẫn phải thiết kế theo dạng khung để bảo đảm phù hợp với quá trình hoàn thiện thể chế và triển khai sau này.
Những nội dung nào có thể giao cho cơ quan điều hành xử lý linh hoạt, nhanh chóng và sát thực tiễn thì nên mạnh dạn phân cấp, ví dụ, như thế chấp cho dự án hay chuyển đổi ngoại tệ đối với các nhà đầu tư nước ngoài hoặc là đầu tư trong nước nhưng vay vốn nước ngoài.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên giải trình, làm rõ về chính sách phát triển năng lượng
Bộ trưởng đồng tình, đây là những nội dung thuộc thẩm quyền của Chính phủ nên không đưa vào Nghị quyết. Theo đúng tinh thần là Quốc hội chỉ quy định những gì thuộc thẩm quyền của mình; thuộc thẩm quyền của Chính phủ thì để Chính phủ, thuộc thẩm quyền của các bộ để các bộ làm.
Còn các dự án trong Quy hoạch điện VIII và đặc biệt là Quy hoạch điện VIII điều chỉnh sẽ phải được thực hiện. Nhưng theo quy định của Luật Quy hoạch và các luật khác có liên quan điều chỉnh thì việc triển khai các dự án vẫn phải tuân thủ, do đó dù trong quy hoạch nhưng không đáp ứng các điều kiện quy định tại các luật khác thì không triển khai được.
“Đây là những cơ chế, chính sách đối với những dự án trọng điểm, quan trọng và dự án lớn để giải quyết các vấn đề năng lượng của đất nước. Nghị quyết không điều chỉnh những dự án nhỏ, chỉ điều chỉnh những dự án quan trọng của quốc gia. Bởi những dự án này nếu chậm tiến độ thì không đảm bảo an ninh năng lượng”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Bộ trưởng bày tỏ, quốc gia nào cũng phải tự chủ về năng lượng, tuy nhiên, trong ngắn hạn, việc nhập khẩu điện vẫn phải diễn ra. Thứ nhất, năng lực sản xuất điện và truyền tải điện của chúng ta chưa đáp ứng; thứ hai, trong ngắn hạn, nhập khẩu điện từ Lào về vùng biên giới của Việt Nam với Lào thì rẻ hơn đưa điện từ miền Nam hay miền Bắc về miền Trung.
Tương tự như vậy, đưa điện từ biên giới phía Bắc, nếu mua của Trung Quốc thì chỉ mất vài chục cây số sẽ rẻ hơn với đường truyền tải từ hàng trăm hàng ngàn cây số từ miền Nam hay miền Trung ra. Cho nên, về lý thuyết, chúng tôi rất đồng tình phải từng bước tự chủ năng lượng quốc gia. Nhưng trong ngắn hạn, chúng ta vẫn phải xác định việc kết nối lưới điện ASEAN và hợp tác trong xuất nhập khẩu điện với các nước xung quanh.
Bộ trưởng chia sẻ thêm về điện hydrogen - khi một số người cho rằng, năng lượng tái tạo nhiều sao không làm hydrogen. Chúng ta hình dung để có được một đơn vị điện hydrogen thì phải mất 2-3 lần sản xuất điện. Phải từ điện gió, điện mặt trời và từ đó điều chế ra hydrogen, từ hydrogen mới bắt đầu làm đầu vào cho sản xuất điện. Như vậy, phải qua 3 lần sản xuất nên giá thành điện hydrogen rất cao, không phù hợp với điều kiện của Việt Nam dù trong 10-15 năm nữa.
Về điện hạt nhân, theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, điện hạt nhân rẻ hơn là tính trong tương lai khi điện hạt nhân phát triển đến một công suất tới hạn. Điều quan trọng, không chỉ là điện mà trong tương lai chúng ta có được công nghệ hạt nhân trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội thì nước ta mới thật sự là hùng cường.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính và các cơ quan của Quốc hội cơ bản tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030. Đây là bước đi quan trọng nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 70 của Bộ Chính trị ban hành ngày 20/6/2025, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong giai đoạn mới.













