Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên làm rõ một số vấn đề ĐBQH chất vấn liên quan đến ngành Công Thương
Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV diễn ra sáng 7/11/2023, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã trả lời làm rõ vấn đề mà ĐBQH nêu liên quan đến vấn đề hàng giả, hàng nhái trên thương mại điện tử; dự án Long Phú I; quản lý kinh doanh thuốc lá điện tử; xuất khẩu.
Phát hiện, xử lý nhiều vụ việc hàng giả, hàng nhái quy mô lớn
Đại biểu Lê Đào An Xuân (Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên): Tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng hóa không đúng với giới thiệu, quảng cáo vẫn là vấn đề nhức nhối, đặc biệt qua các kênh bán hàng online. Đáng lưu ý nhất là hàng giả nhiều ở các ngành hàng thực phẩm, mỹ phẩm, thuốc,… Nhiều vụ việc phát hiện hàng giả, hàng kém chất lượng do chính cộng đồng mạng phát hiện, tẩy chay mà chưa có sự vào cuộc của cơ quan quản lý nhà nước hay hội bảo vệ người tiêu dùng, dẫn đến nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hàng giả, hàng kém chất lượng chưa được xử lý thích đáng.
Theo Bộ trưởng, đến bao giờ Bộ có những giải pháp hữu hiệu giải quyết tình trạng này để người tiêu dùng, người sản xuất chân chính được bảo vệ?
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên: Thương mại điện tử đang là một trong những lĩnh vực tiên phong của nền kinh tế số, trở thành kênh phân phối quan trọng, tạo động lực để phát triển kinh tế và dẫn dắt chuyển đổi số trong các doanh nghiệp. Tại Việt Nam, trong thời gian vừa qua, doanh thu mỗi năm trên môi trường thương mại điện tử đạt 16 - 19 tỷ USD và tốc độ tăng trưởng 20-25%/năm. Đây là một tốc độ tăng trưởng rất cao trong khu vực và thế giới.
Tuy vậy, thương mại điện tử cũng tồn tại những yếu tố tiêu cực như đại biểu An Xuân đã nêu.
Thời gian qua, lực lượng quản lý thị trường cả nước đã phát hiện, xử lý nhiều đối tượng kinh doanh hàng hóa có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu, hàng nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ với quy mô lớn, như vụ việc kiểm tra tại trung tâm mua sắm Sài Gòn Square, phát hiện hàng ngàn sản phẩm giả mạo các nhãn hiệu nổi tiếng đã được bảo hộ tại Việt Nam; vụ việc kiểm tra tại 3 tổng kho, cửa hàng kinh doanh hàng giả, hàng lậu lớn trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang; vụ việc kiểm tra, xử lý 4 kho hàng chứa nhiều sản phẩm giả mạo nhãn hiệu tại Sầm Sơn, Thanh Hóa;…
Những tháng đầu năm nay, lực lượng quản lý thị trường đã kiểm tra 523 vụ, xử lý 497 vụ và phát hiện phạt tiền lên tới 7,8 tỷ đồng. Hành vi vi phạm là kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên môi trường Internet, sử dụng website thương mại điện tử bán hàng mà không thông báo với cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã thực hiện một số giải pháp như:
i) Bổ sung quy định về trách nhiệm của chủ mạng xã hội sàn giao dịch thương mại điện tử, gỡ bỏ những thông tin về hàng hóa vi phạm trong vòng 24h kể từ khi nhận được yêu cầu.
ii) Tích cực, chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện rà soát, nắm bắt thông tin, phát hiện, xử lý các hoạt động vi phạm thông qua bán hàng online, livestream và các đầu mối vận chuyển hàng hóa qua bưu cục, điểm trung chuyển hàng hóa.
iii) Phối hợp với các mạng xã hội xây dựng kênh báo cáo để hỗ trợ xử lý các nội dung mua bán hàng hóa vi phạm pháp luật trên nền tảng xã hội.
Thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tập trung rà soát các quy định của pháp luật có liên quan đến thương mại điện tử, nhất là Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) và các quy định về phân cấp, phân quyền cho địa phương nhằm tăng cường quản lý toàn diện hoạt động giao dịch giữa người mua và người bán trên mạng.
Thứ hai, tăng cường hoạt động quản lý, giám sát hàng hóa trên môi trường mạng, chủ động yêu cầu các sàn giáo dục thương mại điện tử, mạng xã hội phối hợp để mà rà soát, gỡ bỏ thông tin sản phẩm, hàng hóa vi phạm pháp luật.
Thứ ba, tăng cường chia sẻ cơ sở dữ liệu kết nối để khai thác thông tin phục vụ cho công tác quản lý nhà nước trong hoạt động thương mại điện tử.
Tái khởi động Dự án Long Phú I trong thời gian sớm nhất theo đúng luật pháp, bảo vệ cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc và giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp với Nga
Đại biểu Tô Ái Vang (Đoàn ĐBQH tỉnh Sóc Trăng): Thưa Bộ trưởng, đối với Dự án Nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1 gồm 2 tổ máy có công suất là 1.200 MW. Theo kế hoạch thì tổ máy số một của nhà máy này sẽ được đưa vào vận hành thương mại vào năm 2018. Đến nay là tháng 11/2023 tiến độ dự án đạt 78% khối lượng công việc hoàn thành so với hợp đồng và hiện nay dự án đang dừng triển khai chậm 5 năm so với dự kiến dự án đưa vào vận hành.
Việc dừng thi công trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến chất lượng vật tư, thiết bị đang lưu kho bãi ở công trường có nguy cơ phải thay thế mới làm thiệt hại tài sản nhà nước nếu không có biện pháp bảo quản hợp lý và kịp thời.
Trong những lần tiếp xúc cử tri, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sóc Trăng đã tiếp nhận được nhiều ý kiến, kiến nghị của cử tri rất quan tâm về vấn đề này.
Vậy tôi xin hỏi Bộ trưởng Bộ Công Thương và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã có giải pháp nào và thời gian nào để sớm trình Thủ tướng giải quyết vướng mắc để nhiệt điện Long Phú 1 sớm đi vào vận hành?
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên: Từ năm 2010, Dự án Nhà máy nhiệt điện Long Phú 1 gồm 2 tổ máy với tổng công suất 1.200 MW được Chính phủ giao cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) làm chủ đầu tư.
Ngày 30/12/2014, PVN đã ký kết với Liên danh Nhà thầu Power Machines (PM) - Công ty của Nga và Tổng công ty Cổ phần dịch vụ kỹ thuật dầu khí (PTSC) làm Tổng thầu EPC Dự án (trong đó PM là Nhà thầu đứng đầu Liên danh). Tuy nhiên, khi Dự án mới hoàn thành được khoảng 77-78%, phát sinh vướng mắc liên quan đến lệnh cấm vận của Hoa Kỳ đối với Power Machines từ 26/1/2018.
Tháng 11/2019, Nhà thầu Công ty PM có văn bản chính thức thông báo về việc chấm dứt thực hiện Hợp đồng EPC do bất khả kháng.
Ngày 23/8/2019, sau hàng chục cuộc trao đổi, đàm phán không thành công, Power Machines thông qua Luật sư đại diện đã gửi đơn kiện PVN đến Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC). SIAC đã tổ chức 2 phiên xét xử (đợt 1 từ ngày 16 đến ngày 20/1/2023; đợt 2 từ ngày 30/1/2023 đến ngày 3/2/2023). Dự kiến trong Quý IV/2023, SIAC sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng.
Như vậy, sau khi có phán quyết của SIAC, PVN mới có thể đưa ra phương án chính thức tiếp tục triển khai đối với Dự án Long Phú I, ưu tiên kế thừa, tận dụng tối đa các nhà thầu phụ/nhà sản xuất (OEM) các vật tư, thiết bị đã và đang tham gia Dự án nhằm đảm bảo tính tương thích về công nghệ, giảm thiểu giao diện quản lý, tối ưu hóa về thiết kế, tiến độ.
Thực tế đến nay nhiều hệ thống/thiết bị chính của Dự án đã được sản xuất, chế tạo, lưu kho tại nơi sản xuất hoặc vận chuyển một phần về công trường của Dự án.
Chính phủ, Bộ Công Thương đã chỉ đạo PVN, với vai trò là Chủ đầu tư của Dự án Long Phú I, có phương án thực hiện đối với Dự án với mục tiêu giảm thiểu thiệt hại và đưa dự án vào vận hành sớm nhất. Trong trường hợp có vấn đề vượt thẩm quyền PVN có trách nhiệm báo cáo cấp có thẩm quyền để được xem xét, quyết định.
Về vấn đề này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã và đang chỉ đạo sát sao, bảo đảm làm sao tái khởi động và hoàn thiện Dự án trong thời gian sớm nhất (phấn đấu trong năm 2026); bảo đảm đúng luật pháp và bảo vệ cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, đồng thời giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp với Nga, nhất là trong bối cảnh hiện nay.
Đối với Bộ Công Thương, chúng tôi đã thường xuyên đôn đốc tháo gỡ vướng mắc khó khăn cho Dự án, thường xuyên tham mưu, đề xuất với Thủ tướng xem xét những vấn đề vượt thẩm quyền để khẩn trương đưa Dự án đi vào hoạt động.
Thời gian qua, Bộ trưởng Bộ Công Thương, với tư cách là Tổ trưởng Tổ công tác về Dự án Long Phú I, đã rốt ráo làm việc với phía bạn, đồng thời chỉ đạo PVN khẩn trương tìm các giải pháp sau khi có phán quyết của SIAC thì sẽ triển khai thực hiện như đã báo cáo ở trên.
Sẽ ban hành Nghị quyết thí điểm chính sách quản lý đối với các loại hình thuốc lá thế hệ mới
Đại biểu Châu Quỳnh Dao (Đoàn ĐBQH tỉnh Kiên Giang): Hiện nay trên thị trường ước tính có khoảng 20.000 loại hương liệu để sản xuất thuốc lá điện tử, trong đó có nhiều loại hương liệu là chưa đánh giá toàn diện về mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe và loại thuốc lá điện tử này được bày bán công khai với thuốc lá thông thường tại các tiệm tạp hóa, quán giải khác và cổng trường và với giới trẻ và đặc biệt là các em học sinh rất dễ mua, sử dụng và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Xin Bộ trưởng cho biết trách nhiệm quản lý của Bộ Công Thương và biện pháp tháo gỡ trong thời gian tới?
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên: Thực hiện chỉ đạo Thủ tướng, Bộ Công Thương đã có 2 tờ trình báo cáo Thủ tướng về việc ban hành Nghị quyết thí điểm chính sách quản lý đối với các loại hình thuốc lá thế hệ mới chủ yếu là thuốc lá điện tử và thuốc lá làm nóng có hương liệu như đại biểu nêu.
Trên cơ sở đó, Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Công Thương làm việc và thống nhất với Bộ Y tế về chính sách quản lý đối với các loại hình thuốc lá thế hệ mới. Bộ đã có 2 lần làm việc với Bộ Y tế, gần nhất là ngày 23/5/2023, và hiện vẫn đang trong quá trình rà soát để thống nhất quan điểm với Bộ Y tế hoàn thiện chính sách quản lý thuốc lá thế hệ mới.
Theo đó, Bộ Công Thương dự kiến sẽ đưa mặt hàng sản phẩm thuốc lá thế hệ mới vào đối tượng điều chỉnh của Nghị định thay thế Nghị định số 67/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá về kinh doanh thuốc lá để có hình thức quản lý phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, dự kiến sẽ trình Thủ tướng Chính phủ trong quý 4 năm nay.
Về quan điểm của Bộ Y tế là không ủng hộ. Trong khi đó thì Bộ Tư pháp có ý kiến cần đánh giá sự tương thích của thuốc lá thế hệ mới với định nghĩa của thuốc lá hiện nay nếu có sản phẩm thuốc lá thế hệ mới nào thuộc phạm trù thuốc lá thì đề xuất đưa định nghĩa thuốc lá thế hệ mới và Nghị định về kinh doanh thuốc lá thay thế cho Nghị định 67.
Trong quá trình xây dựng, quản lý chính sách thí điểm thuốc lá thế hệ mới thì Bộ Công Thương đang xây dựng phương án quản lý theo hướng là tiệm cận nhất với ý kiến của Bộ Y tế, tức là cấm, để có thể trình Thủ tướng Chính phủ theo hướng phù hợp với Hiến pháp, Luật Đầu tư, các quy định khác có liên quan và chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ bảo đảm chặt chẽ, phù hợp với chiến lược quốc gia, giảm thiểu tác hại của thuốc lá, an toàn sức khỏe cho người sử dụng, dung hòa quyền lợi giữa chủ thể liên quan, phù hợp với thông lệ quốc tế và những cam kết của Việt Nam, với cộng đồng quốc tế.
Thúc đẩy xuất khẩu thông qua tận dụng tốt các FTA
Đại biểu Nguyễn Thị Hà (Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh): Trong bối cảnh tiếp tục diễn biến phức tạp đến từ các yếu tố bên ngoài như sự sụt giảm của nhu cầu thế giới, giá nhiên liệu đầu vào ở mức cao và các yếu tố bên trong như sức ép lạm phát, việc đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững, chuyển đổi số, đáp ứng quy định xuất xứ của các FTA từ triển khai cam kết của Việt Nam tại COP 26. Chính phủ đã có những giải pháp gì để thúc đẩy xuất khẩu trong tình hình mới?
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên: Thời gian qua, việc khai thác các Hiệp định thương mại tự do FTA được Chính phủ, Bộ Công Thương, các Bộ, ngành, địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện, đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Điểm rõ nhất là trong 3 năm gần đây, Việt Nam được xếp là 1 trong 20 quốc gia có quy mô thương mại quốc tế lớn nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng cao khoảng 12,5% trở lên, và liên tục có kết quả xuất siêu. 10 tháng đầu năm 2023, chúng ta xuất siêu 24,6 tỷ USD.
Để có được kết quả như vậy, Chính phủ, Bộ Công Thương, các Bộ, ngành, địa phương có liên quan đã đẩy mạnh các hoạt động đàm phán song phương, đa phương, tập trung vào các thị trường trọng điểm, nhiều tiềm năng. Tính đến nay, bên cạnh việc tham gia thực thi nhiều Hiệp định FTA với độ phủ rộng gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hầu hết những nền kinh tế lớn trên thế giới đều đã tham gia. Việt Nam cũng đang tiếp tục đàm phán FTA với Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA, bao gồm 4 nước: Thụy Sỹ, Na Uy, Ai-len, Liechtenstein), cộng đồng thị trường Nam Mỹ (MECOSUR), UAE và Canada (riêng với UAE, dự kiến sẽ kết thúc đàm phán trong tháng 11 này). Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu khả thi việc đàm phán, ký kết các thỏa thuận thương mại, ưu đãi thương mại với một số đối tác mới có tiềm năng, các đối tác có kinh tế bổ sung, bổ trợ đối với nền kinh tế Việt Nam và những đối tác có tiềm lực về khoa học công nghệ để tiến tới đàm phán FTA trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã và đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ nhiều giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thác hiệu quả cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do FTA, như:
Thứ nhất, đẩy mạnh triển khai có hiệu quả các cam kết quốc tế trong khuôn khổ FTA mà Việt Nam đã tham gia, bảo đảm sự phát triển bền vững, trong đó tập trung triển khai Chương trình hành động thực thi các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA và UKVFTA; chú trọng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại theo chiều sâu, nhất là quan hệ kinh tế đối với các nước, các đối tác lớn, có tiềm năng nhằm tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế thương mại trong nước.
Thứ hai, phát huy vai trò của các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài để nắm bắt, thông tin kịp thời về những biến động của kinh tế thế giới cũng như chính sách mới của các nước sở tại, góp phần định hướng sản xuất trong nước, giúp các doanh nghiệp xây dựng, điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với tiêu chí, tiêu chuẩn, điều kiện của thị trường ngoài nước. Hàng tháng, Bộ Công Thương duy trì chế độ giao ban Thương vụ toàn thế giới với các Hiệp hội và các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, phát triển dịch vụ logistics, thương mại điện tử. Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng trái cây, sản phẩm trồng trọt; tập trung tháo gỡ rào cản kỹ thuật để các doanh nghiệp thâm nhập sâu hơn vào những thị trường mới còn tiềm năng.
Thứ tư, tập trung thúc đẩy ở mức cao nhất chương trình chuyển đổi số trong các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, đẩy mạnh công tác xây dựng, phát triển và quảng bá các sản phẩm Thương hiệu quốc gia, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và thương hiệu ngành hàng ở trong và ngoài nước. Tăng cường kết nối doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam và tham gia vào chuỗi cung ứng của thị trường nước ngoài.
Thứ năm, chú trọng nâng cao năng lực công tác phòng vệ thương mại, cảnh báo sớm cho các vụ kiện.
Cuối cùng, tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến cam kết trong các FTA để Việt Nam thực hiện một cách hiệu quả.