Bổn môn Pháp hoa kinh

Kinh Pháp hoa có Bổn môn và Tích môn, Đạo tràng Pháp hoa chúng ta tu theo Bổn môn.

Năm 1975, khi đất nước chúng ta thống nhất và trong hoàn cảnh xã hội lúc ấy, tôi biên soạn Bổn môn Pháp hoa kinh cho các Phật tử tu. Đó là nguyên nhân ra đời Đạo tràng Pháp Hoa chúng ta và cái gốc của nó là kinh Pháp hoa.

Kinh Pháp hoa ghi rằng Đức Phật Thích Ca phát tâm tu Bồ-tát đạo trong thời Đức Phật Oai Âm Vương. Lúc đó, Ngài chỉ tu một hạnh duy nhất là kính trọng mọi người. Tìm hiểu điều này, tôi có tâm đắc về lý này.

Trên bước đường tu, khi mình tu theo hạnh của Đức Phật Thích Ca thì điều thứ nhất là kính trọng tất cả mọi người và từ sự kính trọng đó mà tạo thành quyến thuộc Bồ-đề. Phật tử tu nên nhớ điều quan trọng này.

Thật vậy, nhờ tiền thân Phật tu hạnh kính trọng mọi người mà tâm Ngài thanh tịnh, khiến Ngài nghe được hai trăm muôn ức bài kệ của kinh Pháp hoa do Phật Oai Âm Vương nói. Điều này gợi cho chúng ta suy nghĩ, hai trăm muôn ức bài kệ kinh Pháp hoa quá nhiều. Còn kinh Pháp hoa chúng ta thọ trì được bao nhiêu bài kệ.

Từ yếu lý này, chúng ta tìm về cội nguồn của kinh Pháp hoa từ thời xa xưa, khi Phật Thích Ca còn hành Bồ-tát đạo mà Phật Oai Âm Vương đã nói đến hai trăm muôn ức bài kệ. Về sau này nữa, kinh còn ghi thêm rằng có hai vạn Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng nói kinh Pháp hoa. Nhưng Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát không nói bao nhiêu bài kệ. Như vậy, thiết nghĩ có vô số bài kệ của kinh Pháp hoa được nói dưới nhiều hình thức khác nhau.

Từ sự việc này, mình tu và nhận thấy cái gì cũng là kinh Pháp hoa, dù người ta tu pháp môn nào trong Phật giáo, mình cũng coi như là Pháp hoa. Vì sao?

Vì tất cả đều coi mình là Phật tử. Cho nên, bây giờ, người tu Tịnh độ, hay tu Thiền, tu Mật, họ cũng được coi là đệ tử, là con của Phật Thích Ca. Cho nên, mình nhìn thực tế như vậy thì tất cả người tu là con của Phật, đồng tu Pháp hoa.

Vì lý này mà Trí Giả đại sư gọi kinh Pháp hoa là Viên giáo. Viên là bao trùm hết, không bỏ ra ngoài cái gì. Tại sao?

Vì khi ngài Trí Giả ngồi bên dòng suối ở Ngọc Tuyền, ngài nhìn đầm sen thấy nước từ trong núi chảy vô đầm. Ngài thấy trong đầm có những cây sen mới nảy mầm. Có những cây sen thành cọng rồi, nhưng nó còn ở trong bùn. Có cây sen ngoi lên nhưng chưa ra khỏi nước. Có cây sen ngoi lên khỏi nước nhưng nó chưa có bông. Có cây sen có bông. Thấy thực tế nhìn hồ sen như vậy mà ngài Trí Giả nghĩ đến kinh Vô lượng nghĩa. Ngài nhận ra được có những người mới phát tâm. Có những người đã thuần thục sau khi trải qua khoảng thời gian dài tu hành rồi. Phật bảo mình tu phải nhìn cho sâu, thấy cho xa và phải hiểu cho rõ.

Vì vậy, về hình thức pháp y của Đạo tràng Pháp Hoa, người tâm còn chưa sạch thì pháp y phải đóng kín lại. Người tâm sạch rồi, thì pháp y được mở ra cho người ta thấy để bắt chước tu theo, tức người đó đã hết phiền não. Khi trì kinh Pháp hoa, mình cứ sửa dần thân tâm, cho đến tròn tám việc mà ngài đưa ra tiêu biểu cho Bát chánh đạo.

Đức Phật dạy mọi người trên cuộc đời này muốn trở thành Phật tử thực sự phải thực hành Bát chánh đạo.

Trong tám điều này, điều thứ nhất phải thực hành là chánh kiến, tức mình nhìn cuộc đời, phải thấy cho đúng. Nếu thấy chưa đúng, chưa chính xác, tức mình còn nhiều lỗi lầm, nhiều sai trái, nên mình còn nhiều thất bại trong cuộc sống, trên cuộc đời này.

Thí dụ mình bắt đầu quán sát một hiện tượng xảy ra trong trời đất, trong một quốc gia, trong một vùng nào đó, hay trong đời mình, thì mình nhìn “như thị tướng” là nhìn cái tướng thật của nó, thấy một cách chính xác. Tức là nhìn thấy tướng hay hiện tượng xảy ra mà mình biết được rõ ràng từ nguyên nhân cho đến hậu quả của nó hoàn toàn đúng đắn.

Đức Phật dạy mọi người trên cuộc đời này muốn trở thành Phật tử thực sự phải thực hành Bát chánh đạo.

Trong tám điều này, điều thứ nhất phải thực hành là chánh kiến, tức mình nhìn cuộc đời, phải thấy cho đúng. Nếu thấy chưa đúng, chưa chính xác, tức mình còn nhiều lỗi lầm, nhiều sai trái, nên mình còn nhiều thất bại trong cuộc sống, trên cuộc đời này.

Quan sát gần nhất và trước hết, hiện tượng xảy ra trong đời mình, trong gia đình mình, mình thấy chính xác chưa? Thấy chính xác rồi, mình phải có cách giải quyết tốt nhất. Còn mình thấy sai lầm thì trong gia đình mình không êm thắm, đời sống mình cũng không ra sao.

Vì vậy, tu Bổn môn là với hình thức như vậy, nhưng nội dung chứa cái gì thì cần đào sâu bên trong. Chính vì lý này mà ngài Trí Giả dạy rằng ban đầu mình học kinh văn, nhưng nhìn thấy cái ẩn chứa bên trong kinh văn, bí mật bên trong đó gọi là Bổn môn. Vậy, làm sao mình khám phá cho được cái bí mật đó là bí mật tạng.

Đầu tiên, người ta chọn hoa sen là biểu tượng kinh Pháp hoa. Hoa sen này tinh khiết, hút bùn nhơ, nhưng nó nhả ra hương thơm. Trên cuộc đời này, người tu Pháp hoa là như vậy, tất cả những gì tội lỗi mà người đổ hết lên cho mình, phải coi như đó là bùn nhơ, và mình chấp nhận dễ dàng. Nhưng chấp nhận cái nhơ bẩn tội lỗi đó rồi, quan trọng nhất là phải nhả ra hương sen từ bùn nhơ, nghĩa là phải thấy cái gì đó thực sự tốt đẹp từ bùn nhơ mình gánh lấy và từ đó để lại cho đời cái gì cao đẹp hơn. Như vậy là thành tựu điều thứ nhất trong Bát chánh đạo.

Về lý này, Đức Phật nói thêm rằng tâm là đất. Mình coi tâm mình như đất, nên ai đổ lên cái gì, mình cũng hoan hỷ. Ai chê mình, nói xấu mình, gây khó khăn cho mình, mình đều chấp nhận. Nhưng quan trọng là chấp nhận để hóa giải nó.

Vì vậy, Đức Phật dạy rằng sanh trên cuộc đời này là bài học lớn, nếu không làm được việc gì tốt đẹp thì thật là uổng phí cuộc đời. Thật vậy, các Phật tử nghiệm xem từ khi sanh ra cho đến bây giờ, mình phải nhận chịu biết bao đau khổ, nhưng mà mình thấy được cái gì, biết cái gì và làm được cái gì chứ.

Nếu hóa giải được tất cả phiền muộn, sai lầm, thì đó chính là bài học lớn mà mình thu hoạch được để những kiếp sau, tái sinh, mình biết rõ mặt mũi nó, tâm tánh nó rồi, thì mình không thể nào bị mắc lừa nó nữa. Rõ ràng cuộc đời này là một trường học lớn rất tốt mà từ sanh ra cho đến chết, mình học được ở đó rất nhiều điều. Còn quý vị không học được, mình ra đi tay không, cứ nói sanh ra không mang gì đến và chết không mang gì đi.

Nhưng tôi nói thêm rằng khi ta còn sống, ta phải làm được cái gì đó cho cuộc đời.

Ngài Dalai Lama nói dễ thương là nếu ta không làm gì đẹp cho cuộc đời, nhớ đừng làm xấu thêm cho cuộc đời, đừng để lại tiếng xấu cho cuộc đời khi ra đi.

Quý vị nghĩ mình sanh ra trên cuộc đời và rời khỏi cuộc đời này mà mình không học được cái gì, không tu được gì thì phí phạm cuộc sống quý báu của thân người.

Từ trong vô số khổ đau của chốn bùn nhơ này mà đi ra và ta biết rõ những sự kiện xảy ra rồi thì ta nên làm gì, nói gì.

Thí dụ mỗi người chúng ta có cái thấy khác nhau, suy nghĩ khác nhau và hành động khác nhau, đó là thấy theo nghiệp của mình, hành động theo nghiệp xúi giục mình.

Tôi nhìn kỹ từng người rơi vô quả báo họ phải thọ và nhận thức được ở xã hội này, hoàn cảnh này, tôi phải làm gì và rộng ra thấy thế giới này có bao nhiêu chủng tộc, bao nhiêu quốc gia, bao nhiêu tư tưởng khác nhau. Chỗ này Phật nói là Ta-bà thế giới. Thế giới này là Ta-bà có đủ mọi thứ, mình sanh vô đây phải quan sát kỹ để thấy cho đúng.

Quý vị quan sát gần nhất là thấy người trong gia đình mình, người chung quanh mình và thấy rõ xã hội mình đang sống, và mình nên sống thế nào, chính chỗ này mình mới có chánh nghiệp, chánh mạng. Chánh nghiệp nghĩa là mình phải sống thế nào cho được yên ổn, phải làm gì cho cuộc sống vật chất và tinh thần được tốt đẹp, đó là điều quan trọng nhất.

Vì nếu làm bậy thì khổ lắm, nên Phật khuyên đừng làm theo người khác, phải sống thực tế với hoàn cảnh của mình. Chứ bắt chước người ta, mình có nhà cửa đàng hoàng mà lại bỏ nhà cửa để ra ngoài gò mả ngủ là sai lầm lớn. Phật không dạy như vậy. Mỗi người phải tùy thân phận, tức hoàn cảnh mỗi người khác nhau, phải thấy đúng vị trí của mình là làm việc gì thích hợp.

Thấy gần đúng rồi, lần lần thấy xa hơn, Phật giới thiệu thế giới Phật thế này, thế giới chư thiên thế này. Mình coi trong kinh, thấy Phật nói thì tự biết mình có giống thế giới Phật hay không.

Tu hành, lạy Phật, sám hối, tụng kinh, thì quyết tâm tu, nghiệp mình tan lần, phước của mình sanh ra.

Có người thưa với tôi rằng, khi con mới lạy sám hối 108 lạy kinh Pháp hoa. Lạy xong, mồ hôi ướt đẫm áo, ướt luôn xuống dưới chân, đứng dậy không nổi. Nhưng con chịu cực, lạy sám hối như vậy, ba năm sau, không ra mồ hôi nữa. Mình tu phải có kết quả, đừng mất trắng, ra đi hai tay không.

Một người khác nói có điều lạ là tụng kinh Pháp hoa suốt ngày, nhưng không thấy mệt, không khô cổ, không uống nước. Điều này không phải ngày nay mới có, mà ngày xưa ngài La-thập đã trải nghiệm, nói “hầu trung cam lộ quyên quyên nhuận” nghĩa là tụng kinh suốt ngày không khát nước, trong cổ có vị ngọt. Đó là người tu có tiến bộ thì trong chúng, người ta thấy mặt người này sáng lần ra, hành động, cử chỉ của họ dễ thương hơn nữa.

Tu phải chuyển nghiệp lần. Tu ít nói, nhưng không nói sai, nói nhiều quá gây mất lòng chúng, mà đòi mở y là không được.

Tôi thấy điều này khó, không người nào làm được, nên tôi hạ xuống, từ năm năm bớt xuống còn ba năm được mở y. Nhưng cũng chưa được tám cánh sen thì hạ xuống nữa, chỉ thuộc lòng hai phẩm: Phổ môn và Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát, thì được mở y. Vì vậy, tôi cắt bỏ tám cánh sen trên pháp y của đạo tràng, nghĩa là chưa làm được tám điều của Bát chánh đạo (chánh kiến, chánh ngữ, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh định), chưa hiểu giáo lý chính xác thì chỉ thuộc hai phẩm Phổ môn và Phổ Hiền cũng tạm được. Còn đòi hỏi phải nhìn đời cho chính xác (chánh kiến), hoặc nói điều gì cũng như lời sấm phán (chánh ngữ) thì khó quá, mấy ai làm được.

Chánh nghiệp và chánh mạng là nghề mình làm chỉ có lợi, không có hại cho ai và cuộc sống của mình phải có ý nghĩa.

Và sau cùng, còn đòi hỏi phải có chánh niệm, chánh định. Nghĩa là luôn luôn, lúc nào cũng tập trung tư tưởng được, sống trong tư duy, trong thiền định nhiều hơn thì bấy giờ, một thế giới mới xuất hiện. Khi đạt tới pháp này thì có điều lạ là nhìn đâu cũng thấy Phật, nhìn ai cũng là Phật.

Như vậy, điều này trở lại hạnh của Thường Bất Khinh Bồ-tát, tức tiền thân của Phật Thích Ca thấy ai cũng là Phật.

Riêng tôi, trước kia lên núi Thị Vãi thấy hòn đá lớn giống như Đức Phật Thích Ca đang ngồi có đủ toàn thân, đầu mắt, tay chân. Nhưng khi đến gần thấy chỉ là hòn đá. Đạt được pháp này gọi là tưởng tri. Thức tri là kinh nghiệm do mình học nhiều, biết nhiều, nhưng không học mà nhìn thấy biết là do trong đầu mình có “tưởng”.

Người tu sống ở Ta-bà, nhưng cái tưởng của họ ở chỗ khác. Ta ở Ta-bà nhưng tưởng ở thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Thế giới Ta-bà toàn khổ, thế giới Cực lạc toàn vui. Mình ở thế giới Ta-bà khổ, nhưng mình cảm được an lạc của thế giới Cực lạc. Về điều này, tôi nói thêm rằng thân có khổ ở Ta-bà, nhưng tâm an vui ở Cực lạc. Các vị tu phải đắc pháp này trước, làm sao thân khổ mà tâm không khổ. Thân ở Ta-bà nhưng tâm ở Cực lạc là bắt đầu tu “tưởng”.

Vì vậy, tôi ngồi niệm Phật A Di Đà, nghĩ về Đức Phật A Di Đà, nghĩ về Cực lạc, nghĩ về Thánh chúng, nên tôi nhìn xuống thấy mọi người là Thánh chúng. Mà quý vị đang ngồi trang nghiêm thanh tịnh nghe pháp thì như vậy, quý vị là Thánh chúng rồi.

Đạt được như vậy, đời sống tinh thần mình nâng cao thì khi bỏ thân này, hoặc về Cực lạc ngồi tòa sen, hoặc lên trời hưởng phước. Đó là có “tưởng”. Cho nên thế giới của chư thiên là thế giới “tưởng”, không phải thế giới thực. Vì chư thiên không có thân vật chất tứ đại nặng trịch, nên họ đi lại tự tại. Họ ở thế giới chư thiên muốn qua thế giới Phật nghe pháp là tới được liền. Tu đạt được thành quả này lạ lắm.

Thí dụ tôi ngồi đây, muốn tới Bồ Đề Đạo Tràng là tới liền, đó là tới bằng tâm. Và nếu có “tưởng” cao hơn nữa, mình ngồi đây nhưng tưởng đến thế giới Thật báo của Đức Phật Thích Ca thì mình liền tới thế giới Thật báo nghe Phật Thích Ca thuyết pháp. Điều này tôi chưa đạt tới, nhưng ngài Trí Giả đại sư đã đạt tới pháp này.

Ngài kể rằng ngài đang tụng kinh ở đây, nhưng cái tưởng của ngài ở thế giới Thật báo, nên ngài liền vào đó, nghe Đức Phật Thích Ca thuyết pháp và ngài trở lại thế giới mình. Ngài thưa với Huệ Tư thiền sư rằng con tụng kinh Pháp hoa ở thế giới này, nhưng sao con thấy thế giới Thật báo của Phật Thích Ca và con nghe pháp Phật đang nói. Ngài Huệ Tư ấn chứng rằng ông là người ở thế giới của Phật Thích Ca sanh lại thế giới này, nên cái tưởng của ông trở lại thế giới cũ là thế giới Thật báo của Phật, nghĩa là ông đắc đạo rồi. Ông nên đi truyền đạo.

Vâng lời dạy của Tổ, ngài xuống kinh đô của nhà Trần (Trung Hoa) thuyết pháp. Trở lại cuộc đời này, ngài trở thành con người siêu tuyệt. Nên trong suốt ba tháng, ngài chỉ nói năm chữ Diệu pháp liên hoa kinh, mà nhà vua phải ra lệnh bãi chầu để đi nghe ngài giảng pháp. Điều này thể hiện sức thuyết phục kỳ diệu của ngài và cũng nói lên rằng bản chất của ngài là người của thế giới Phật sanh qua thế giới Ta-bà, nên hiểu biết của ngài có chiều sâu khác với mình nhiều lắm.

Phải biết thế giới mình có chư thiên sanh lại, có Bồ-tát sanh lại, có Phật sanh lại… Nếu mình lắng lòng cho thanh tịnh, mình nhận ra được chư thiên có cung cách của chư thiên, Bồ-tát có cung cách của Bồ-tát.

Và mình nhận ra được rồi, mình nương tựa những người này và kết quyến thuộc với các ngài để cùng nhau tu hành thì sẽ được kết quả tốt đẹp.

Người nhiều chuyện quá, mình gạt qua một bên. Trên bước đường tu, tôi ít gặp phiền phức nhờ biết tránh xa loại người này, tu hành nhưng cứ chụm lại nói chuyện vô ích. Ngồi suy nghĩ đạo lý hay hơn và từ đó mình dễ thâm nhập Phật huệ.

Người được như vậy, xứng đáng được y mở thì bắt đầu họ kết quyến thuộc Bồ-đề. Nói cách khác, tâm mình sáng rồi, mình quan sát người nào có nhân duyên với mình. Nhân duyên là gì?

Mình sống đời này, nhưng nhìn hiện tại để thấy đời trước của họ. Đức Phật dạy muốn biết đời trước của mình, thì xem hiện tại của mình, muốn biết đời trước của người thì xem hiện tại của họ từ đâu sanh lại.

Từ đó, mình thấy người khác có suy nghĩ giống mình, hành động giống mình, thì biết họ là quyến thuộc của mình. Còn gặp người là bạn, nhưng hay nói ngược nhau, cái thấy của mình và cái thấy của họ ngược nhau thì nên tránh một bên. Mình không nói, không chê họ, nhưng tránh mặt để không mất lòng.

Tóm lại, quý vị nhớ Phật dạy có được thân người rất khó và lại biết Phật pháp tu hành càng khó hơn. Đã được điều tốt như vậy, mà hiện hữu trên cuộc đời này, không làm được gì lợi ích mà đi ra khỏi cuộc đời với hai bàn tay trắng thì uổng lắm. Mà lại tạo nghiệp ác nữa thì đời sau tái sanh, không được như thế này, còn khổ hơn nhiều nữa.

Những gì mình tu được là cái nhân tốt cho đời sau, giúp cuộc sống phước báu nhiều hơn, hạnh phúc hơn…

Người nào ý hạp tâm đầu thì cùng làm bạn với nhau để tu hành. Người tu Pháp hoa Bổn môn như vậy, kết thành quyến thuộc Bồ-đề. Không phải mình tu một mình như Thanh văn, nhưng mình tu có bạn, mà chọn bạn tốt.

Tôi có lời nguyện người nào có nhân duyên với tôi, xin Phật khiến họ tới nghe pháp và cùng tu thì tốt. Còn người nào khác, xin nhờ hai ông Kim cang đưa đi, vì vô đây không thích hợp với họ. Vô đạo tràng ngồi yên nghe pháp, tụng kinh, nhiều người không thích như vậy thì họ tự đi ra, mình không đuổi. Nhưng mình cũng có một số quy tắc như ngồi đúng chỗ, lạy đúng cách, giữ yên lặng, không được nói chuyện…, để lựa người đồng hạnh cùng tu cho có kết quả.

Ngày xưa, Đức Phật cũng chế luật để hạn chế những người lợi dụng Tăng đoàn cho ý đồ riêng của họ. Thí dụ, Phật chỉ cho ăn ngày một bữa, hoặc không được giữ tiền… Không tuân thủ thì loại ra, không cho tu. Còn lại những người chuyên tu hạnh Thanh văn kết bạn cùng tu cho được kết quả tốt.

Tóm lại, quý vị nhớ Phật dạy có được thân người rất khó và lại biết Phật pháp tu hành càng khó hơn. Đã được điều tốt như vậy, mà hiện hữu trên cuộc đời này, không làm được gì lợi ích mà đi ra khỏi cuộc đời với hai bàn tay trắng thì uổng lắm. Mà lại tạo nghiệp ác nữa thì đời sau tái sanh, không được như thế này, còn khổ hơn nhiều nữa.

Những gì mình tu được là cái nhân tốt cho đời sau, giúp cuộc sống phước báu nhiều hơn, hạnh phúc hơn…

Cái tội đời này là cái nghiệp cho đời sau, nên sanh ra, mình gặp người ác nhiều hơn, gặp người hại mình bao vây đòi nợ, đòi mạng… thì cuộc sống lúc đó quả là địa ngục trần gian.

Hòa thượng Thích Trí Quảng/Báo Giác Ngộ

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/bon-mon-phap-hoa-kinh-post75151.html