'Bữa tiệc tri thức ngoại giao': Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên nói một điều ước, Đại sứ Đặng Đình Quý tâm đắc những tuyệt kỹ, vinh quang và sứ mệnh
Suốt 8 thập kỷ qua, những hành trình nào Ngoại giao Việt Nam đã đi qua, những gian khó nào đã nếm trải và những vinh quang nào đã chạm tới? Nhiều câu chuyện được ôn lại qua góc nhìn của các nhà ngoại giao kỳ cựu trong buổi Tọa đàm ý nghĩa hướng tới kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Ngoại giao.

Toàn cảnh Tọa đàm: "Ngoại giao Việt Nam: 80 năm vinh dự, tự hào". (Ảnh: Thành Long)
Sáng ngày 28/2, nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Ngoại giao Việt Nam (28/8/1945-28/8/2025), Học viện Ngoại giao tổ chức Tọa đàm: "Ngoại giao Việt Nam: 80 năm vinh dự và tự hào".
Tọa đàm do Thứ trưởng Thường trực Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ chủ trì với sự tham dự của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, các nguyên Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, lãnh đạo Học viện Ngoại giao và đại diện các đơn vị trong Bộ Ngoại giao.
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Tiến sĩ Nguyễn Hùng Sơn, Quyền Giám đốc Học viện Ngoại giao cho biết Tọa đàm là sự kiện khởi đầu chuỗi hoạt động kỷ niệm 80 năm ngành Ngoại giao Việt Nam; là dịp để ôn lại những trang sử đầy thử thách nhưng cũng đầy vinh quang của nền ngoại giao nước nhà; kết nối các thế hệ ngoại giao đi trước và thế hệ trẻ - tương lai của Ngoại giao Việt Nam.
Trong bối cảnh thế giới nhiều biến động, ngoại giao càng mang trên mình sứ mệnh lớn lao hơn. Tiến sĩ Nguyễn Hùng Sơn khẳng định, thế hệ ngoại giao hôm nay mong muốn tiếp bước các thế hệ đi trước, tiếp tục đưa ngọn đuốc Ngoại giao Việt Nam vươn xa.
Những mốc son chói lọi
Chủ trì Tọa đàm, Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Minh Vũ nhấn mạnh rằng một trong những mục tiêu quan trọng của sự kiện là thể hiện sự tri ân, đồng thời hun đúc truyền thống, tình yêu nghề và niềm tự hào về ngành Ngoại giao.
Nhắc lại phương châm quản trị đất nước của cha ông "quốc phú, nội yên, ngoại tĩnh, dân cường", Thứ trưởng khẳng định dù trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, ngoại giao luôn đồng hành cùng dân tộc, góp phần vào những thành tựu chung, từ đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước đến công cuộc hội nhập và phát triển. Ông nhấn mạnh, dù không có tiếng súng, mặt trận ngoại giao luôn cam go và khốc liệt, đòi hỏi sự kiên trì, bản lĩnh và trí tuệ.
Trong khuôn khổ Tọa đàm, các đại biểu đã cùng nhau chia sẻ góc nhìn về những dấu ấn và mốc son chói lọi của Ngành. Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên khẳng định, 80 năm qua, Ngoại giao Việt Nam đã đi những bước vững vàng, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất và phát triển đất nước.

Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên chia sẻ tại Tọa đàm. (Ảnh: Thành Long)
Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên chia sẻ về bốn mốc son của ngành Ngoại giao. Trong đó, mốc đầu tiên là thời kỳ Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ông đặt câu hỏi: Tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại trực tiếp đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Ngoại giao? Điều này cho thấy tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của Ngoại giao trong giai đoạn đó.
Đó là thời điểm đất nước đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", nhưng với tầm nhìn chiến lược và bản lĩnh, Bác Hồ đã có những quyết sách ngoại giao táo bạo, mạnh mẽ để chèo lái vận mệnh dân tộc. Nếu không có những bước đi đúng đắn ấy, làm sao Việt Nam có thể vượt qua được vòng vây của cả "thù trong, giặc ngoài"?
Mốc son thứ hai là Hiệp định Geneva năm 1954 – dấu ấn quan trọng khi Việt Nam lần đầu tiên bước ra vũ đài quốc tế. Trước đó, vào năm 1950, Việt Nam mới chỉ thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Dù còn ít kinh nghiệm và phải đối mặt với nhiều thách thức, nhưng những kết quả đạt được tại Hội nghị Geneva vẫn mang ý nghĩa quan trọng, phù hợp với những đánh giá và nhận định của Đảng ta lúc bấy giờ. Đây là bước khởi đầu quan trọng, khẳng định vị thế của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam trên trường quốc tế.
Mốc son thứ ba là Hiệp định Paris 1973, đây là đỉnh cao của Ngoại giao Việt Nam trong thương lượng, ký kết một hiệp ước quốc tế. Việt Nam hoàn toàn chủ động, buộc Mỹ phải đàm phán theo điều kiện của ta. Hiệp định Paris không chỉ đánh dấu thắng lợi về mặt pháp lý và ngoại giao mà còn thể hiện khí thế mạnh mẽ của Việt Nam trên trường quốc tế.
Mốc son thứ tư làgiai đoạntừ năm 1986 - thời kỳ Đổi mới đến nay. "Trải qua nhiều cương vị trong ngành Ngoại giao, tôi chưa bao giờ mơ ước đất nước, các mối quan hệ, vị thế của Việt Nam được như ngày nay, nếu cho tôi một điều ước, tôi chỉ ước có thể trở lại 40 năm để là một cán bộ ngoại giao, trong thời kỳ này".
Theo nguyên Bộ trưởng, Việt Nam đang có một cơ hội vàng, thời cơ vàng phải nắm bắt. Mối quan hệ đối tác của Việt Nam là những sợi dây giúp Việt Nam vững mạnh và phát triển, Ngoại giao Việt Nam phải giữ lấy những sợi dây này để làm đất nước giàu mạnh lên. "Đồng thời, đúng theo tinh thần được Tổng Bí thư Tô Lâm quán triệt, chúng ta không nên đi theo đường mòn, phải sáng tạo, linh hoạt để thành công hơn nữa", nguyên Bộ trưởng nhấn mạnh.

Đại sứ Lê Văn Bàng chia sẻ tại Tọa đàm. (Ảnh: Thành Long)
"Ngoại giao cân bằng, linh động"
Nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Lê Văn Bàng tâm đắc với chia sẻ của "người thầy" Nguyễn Dy Niên về những giai đoạn thành công của Ngoại giao Việt Nam. Đại sứ cho rằng, từ năm 1946 đến nay, Ngoại giao Việt Nam đã rất trưởng thành.
Nhấn mạnh định hướng quan trọng của Ngoại giao Việt Nam, được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề cập tại Diễn đàn Tương lai ASEAN 2025 hai ngày trước: "ngoại giao cân bằng, linh động", theo Đại sứ, Việt Nam ngày càng thực hiện nhuần nhuyễn chiến lược này, đến mức nhiều quốc gia mong muốn học hỏi. "Cân bằng, linh động" trong ngoại giao không chỉ giúp Việt Nam duy trì hòa bình, độc lập mà còn tạo nền tảng vững chắc cho phát triển. Đây là con đường cần tiếp tục củng cố và phát huy trong bối cảnh thế giới nhiều biến động.
Lắng nghe các bậc tiền bối ôn lại chặng đường đã qua của Ngoại giao Việt Nam, trong đó có cả những đóng góp của chính mình, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Đoàn Xuân Hưng bày tỏ niềm tự hào sâu sắc về lịch sử vẻ vang của Ngành.
Theo Đại sứ, trong suốt 80 năm, Ngoại giao Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng, đưa đất nước từ một thuộc địa trở thành một quốc gia có vị thế trên bản đồ thế giới, được nhiều nước nhắc đến và tôn trọng. Ngoại giao đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình: đấu tranh giành độc lập, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Từ một quốc gia nghèo khó, Việt Nam ngày càng vươn lên, trở thành một hình mẫu phát triển được bạn bè quốc tế ghi nhận.

Đại sứ Đoàn Xuân Hưng chia sẻ tại Tọa đàm. (Ảnh: Thành Long)
Nhìn lại chặng đường phát triển của Ngoại giao Việt Nam, Đại sứ Đoàn Xuân Hưng cho rằng ngành đã "chấm phá" nhiều dấu ấn khó quên. Ngay từ những ngày đầu lập nước, Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên – Chủ tịch Hồ Chí Minh – đã dành cả tháng trời ra nước ngoài vận động bạn bè quốc tế ủng hộ nền độc lập non trẻ của Việt Nam.
Những năm 1950 một số nước lớn đã công nhận Việt Nam, đến nay gần như cả thế giới đã có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trong giai đoạn Đổi mới, mở cửa với thế giới bên ngoài, chúng ta phát huy chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập sâu rộng, mở đầu bằng hội nhập kinh tế quốc tế đến hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đó là những bước đi rất quan trọng và có ý nghĩa sâu rộng trong sự nghiệp Đổi mới.
"Ngành Ngoại giao luôn tiên phong, có bản lĩnh đi đầu để đất nước vững bước tiến lên. Chúng ta phải tiếp tục con đường này để chinh phục, viết tiếp những trang sử ngoại giao. Chúng ta tự hào vì là thành viên của ngành Ngoại giao, đóng góp vào hình ảnh, vị thế và cơ đồ của đất nước như hiện nay", Đại sứ Đoàn Xuân Hưng bày tỏ.

Đại sứ Đặng Đình Quý chia sẻ tại Tọa đàm. (Ảnh: Thành Long)
Vinh quang và trách nhiệm
Nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Đặng Đình Quý chia sẻ những suy nghĩ của ông từ nhiều góc nhìn, bao gồm cả góc nhìn nghiên cứu. Theo ông, Ngoại giao Việt Nam giai đoạn 1945-1946 có thể được xem là một "tuyệt kỹ" trong nghệ thuật giành thời cơ và thỏa hiệp. Tương tự, khả năng làm chủ cuộc chơi tại Hội nghị Paris năm 1973 cũng là một "tuyệt kỹ" của ngoại giao nước nhỏ thời bấy giờ.
Đại sứ đặt ra nhiều câu hỏi và tự gợi mở câu trả lời từ cách tiếp cận của riêng mình. Làm ngoại giao có phải là nghề vinh dự không? Chắc chắn là có, vì đây là công việc giúp người làm ngoại giao có cơ hội tiếp cận những nơi mà ít người có thể đến. Làm ngoại giao có nguy hiểm không? Cũng rất nguy hiểm, đó là một quá trình đấu tranh lâu dài, để tranh đấu cho những điều mình tin là đúng, là những điều tốt đẹp cho quốc gia. Nếu không vượt qua những hiểm nguy đó sẽ khó có được di sản ngoại giao như ngày nay.
"Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" là điều Bác Hồ hằng mong, theo Đại sứ, ngoại giao có vinh quang và trách nhiệm đóng góp vào hiện thực hóa lý tưởng đó.
Từ góc độ nghiên cứu, Đại sứ Đặng Đình Quý khái quát di sản 80 năm của Ngoại giao Việt Nam, thể hiện trên ba phương diện quan trọng.
Thứ nhất, thế đối ngoại của Việt Nam ngày càng vững chắc với 32 mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện, tạo nền tảng để Việt Nam giữ vững môi trường hòa bình và ổn định.
Thứ hai, nền Ngoại giao Việt Nam được xây dựng trên hai yếu tố cốt lõi: phần cứng là tổ chức bộ máy, đặc biệt là con người; phần mềm là tư duy, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, được vận dụng linh hoạt vào đường lối, chính sách, kế hoạch và nghệ thuật ngoại giao hiện nay.
Theo Đại sứ Đặng Đình Quý, thế hệ ngoại giao ngày nay cần kế thừa và vận dụng sáng tạo di sản đó trong kỷ nguyên vươn mình.
Cuối buổi Tọa đàm, các đại biểu có những gửi gắm tới thế hệ trẻ ngành Ngoại giao qua những thông điệp ngắn gọn, truyền cảm hứng.
Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên: "Đây là cơ hội vàng, thời cơ vàng, những người làm ngoại giao hãy cố gắng tiến lên!". Đại sứ Lê Văn Bàng: "Hãy nhớ tới hai từ: Quốc gia và dân tộc. Quốc gia là độc lập và toàn vẹn lãnh thổ; dân tộc là người Việt Nam ấm no, hạnh phúc". Đại sứ Đoàn Xuân Hưng: "Tự hào về lịch sử ngành Ngoại giao, hãy cố gắng để tiếp bước thế hệ đi trước, viết những trang sử vẻ vang hơn của Ngoại giao Việt Nam". Đại sứ Đặng Đình Quý: "Ai có đam mê thì hãy cứ nuôi dưỡng và theo đuổi nó, điều gì đến sẽ đến".
"Bữa tiệc tri thức ngoại giao" khép lại, để lại nhiều cảm xúc lắng đọng trong mỗi người tham dự. Dù thuộc thế hệ nào, tất cả đều chung niềm tự hào về chặng đường 80 năm vẻ vang của ngành Ngoại giao và cùng chung ước vọng hành trình ấy sẽ rực rỡ hơn nữa trong kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam.