5 yếu tố phải tính khi sáp nhập các tỉnh

Đại biểu Quốc hội Phạm Trọng Nghĩa cho rằng, muốn thực hiện bỏ cấp huyện thì phải nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp và việc sáp nhập tỉnh phải căn cứ vào các tiêu chí rõ ràng.

TS. Phạm Trọng Nghĩa, Ủy viên Chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội gợi mở nhiều vấn đề đáng chú ý khi trao đổi với PV VietNamNet liên quan đến các giải pháp để thực hiện có hiệu quả kết luận của Bộ Chính trị về việc nghiên cứu định hướng tiếp tục sắp xếp bỏ cấp hành chính trung gian (cấp huyện); định hướng sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh.

Các tỉnh sáp nhập nên cùng trong một vùng kinh tế - xã hội

Theo ông, trong bối cảnh chúng ta vừa hoàn thành sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ các cơ quan Trung ương đến địa phương thì việc bỏ cấp huyện, sáp nhập tỉnh nên tính toán như thế nào?

Việc Bộ Chính trị yêu cầu nghiên cứu định hướng bỏ cấp hành chính trung gian (cấp huyện) và sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh như nêu trong Kết luận số 126 ngày 14/2/2025 là sự đột phá trên cơ sở tiếp nối cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị mà chúng ta đang thực hiện.

Việc bỏ cấp huyện và sáp nhập tỉnh là một bước đi chiến lược. Để đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của Trung ương là “làm kỹ lưỡng, thận trọng nhưng phải nhanh”, chúng tôi cho rằng, cần quan tâm đến một số vấn đề.

TS. Phạm Trọng Nghĩa là nghiên cứu sinh sau tiến sĩ về Quản trị toàn cầu tại Đại học Princeton, Mỹ (2015-2016) và tại Đại học Oxford, Vương quốc Anh (2016-2017). Ảnh: Phạm Thắng

TS. Phạm Trọng Nghĩa là nghiên cứu sinh sau tiến sĩ về Quản trị toàn cầu tại Đại học Princeton, Mỹ (2015-2016) và tại Đại học Oxford, Vương quốc Anh (2016-2017). Ảnh: Phạm Thắng

Đầu tiên, chúng ta phải quán triệt mục tiêu nhất quán, đó là bỏ cấp huyện và sáp nhập tỉnh không chỉ nhằm giảm số lượng đơn vị hành chính mà phải hướng tới nâng cao năng lực quản lý nhà nước, tối ưu hóa nguồn lực, và tạo không gian phát triển kinh tế - xã hội rộng lớn hơn. Theo đó, quá trình này phải đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên hàng đầu.

Việc sáp nhập cấp tỉnh phải căn cứ vào các tiêu chí rõ ràng như tiêu chí về vị trí tự nhiên, dân số và kinh tế - xã hội; phải tính đến các yếu tố đặc thù như lịch sử, văn hóa, truyền thống và tín ngưỡng của người dân.

Các tỉnh sáp nhập cần có sự bổ trợ lẫn nhau về kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) để tạo động lực phát triển vùng. Theo đó, nước ta đã được chia thành 6 vùng kinh tế - xã hội và mỗi vùng có nghị quyết riêng của Bộ Chính trị thì khi sáp nhập có thể đưa tiêu chí là các tỉnh sáp nhập phải trong một vùng kinh tế - xã hội.

Đặc biệt, cần chuẩn bị phương án và nguồn lực để giải quyết các vấn đề phát sinh như công tác cán bộ (vì việc bỏ cấp huyện, sáp nhập tỉnh sẽ dẫn đến số lượng lớn cán bộ, công chức cần sắp xếp lại); việc quản lý, sử dụng tài sản công không còn tiếp tục sử dụng (nhất là trụ sở làm việc); việc cung cấp các dịch vụ công và ổn định đời sống dân cư; việc bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội...

Cùng với đó là phải tính toán đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường sử dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ quản lý hiệu quả ở mô hình 2 cấp, giảm bớt nhu cầu về cấp trung gian.

Cuối cùng, phát huy kinh nghiệm của quá trình sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong thời gian qua, đồng thời tham khảo kinh nghiệm quốc tế phù hợp.

Hiện nay có rất nhiều ý kiến quan tâm đến việc tỉnh nào nên nhập với tỉnh nào, tên gọi là gì, còn bao nhiêu tỉnh, thành là phù hợp? Từ thực tiễn sắp xếp các đơn vị hành chính cấp tỉnh qua các giai đoạn lịch sử, ông có góp ý gì về việc này?

Việc sắp xếp và điều chỉnh các đơn vị hành chính cấp tỉnh là một vấn đề lớn và cần được xem xét cẩn thận dựa trên nhiều tiêu chí và điều kiện rõ ràng. Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc phân loại đơn vị hành chính dựa trên các tiêu chí về quy mô dân số, diện tích tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và các yếu tố đặc thù.

Theo tôi, để xác định tỉnh nào sáp nhập với tỉnh nào, tên gọi là gì cần tính đến các yếu tố sau:

Thứ nhất, yếu tố địa kinh tế: Việc sáp nhập các tỉnh cần phải giúp tối ưu hóa nguồn lực và thúc đẩy phát triển. Các tỉnh có địa lý, có nền kinh tế tương đồng hoặc có thể bổ trợ cho nhau có thể được xem xét để sáp nhập.

Thứ hai, yếu tố văn hóa và xã hội: Việc sáp nhập các tỉnh cần đảm bảo không làm mất đi bản sắc văn hóa riêng biệt của từng địa phương, được sự đồng thuận và ủng hộ từ người dân.

Thứ ba, yếu tố quản lý hành chính: Việc sáp nhập các tỉnh phải giúp tinh giản bộ máy hành chính, nhưng cũng cần đảm bảo rằng các dịch vụ công vẫn được cung cấp thông suốt, hiệu quả và không gây khó khăn cho người dân.

Thứ tư, yếu tố hạ tầng: Việc sáp nhập các tỉnh phải đảm bảo rằng việc sáp nhập không gây ra khó khăn trong việc di chuyển và kết nối giữa các khu vực.

Thứ năm, yếu tố lịch sử và truyền thống: Việc sáp nhập các tỉnh phải tôn trọng lịch sử và truyền thống tốt đẹp của từng địa phương.

Cuối cùng, quá trình xác định các tiêu chí và yếu tố nêu trên cần có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học và đặc biệt là ý kiến từ cộng đồng địa phương.

Nghiên cứu sửa Hiến pháp, cần thiết thì kéo dài nhiệm kỳ

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng lưu ý, đi kèm với đề án sắp xếp, tinh gọn bộ máy tổ chức thì phải đề xuất sửa đổi văn bản pháp luật, kể cả một số văn bản pháp luật rất quan trọng như Hiến pháp. Vậy theo ông, để thực hiện chủ trương sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện, có phải sửa Hiến pháp không và lộ trình sẽ thực hiện ra sao?

Khi phát biểu thảo luận tại hội trường trong kỳ họp bất thường lần thứ 9 vừa qua, đã có ý kiến đề nghị Quốc hội sớm chỉ đạo các cơ quan tổng kết việc thi hành Hiến pháp 2013, đánh giá việc thi hành các luật về tổ chức bộ máy để điều chỉnh mô hình tổng thể bộ máy Nhà nước phù hợp với kỷ nguyên mới của dân tộc.

Điều 110 Hiến pháp 2013 quy định: Các đơn vị hành chính gồm có tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn.

Như vậy, Hiến pháp đã xác định rõ mô hình 3 cấp chính quyền địa phương: Tỉnh (hoặc thành phố trực thuộc trung ương), huyện (hoặc quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), và xã (hoặc phường, thị trấn).

Do đó, nếu bỏ cấp huyện, mô hình chính quyền địa phương sẽ chỉ còn 2 cấp (tỉnh - xã), thì phải sửa Điều 110 Hiến pháp hiện hành. Bên cạnh đó, cần điều chỉnh một số điều khoản khác liên quan để đảm bảo tính thống nhất cũng như tạo cơ sở hiến định cho hoàn thiện bộ máy nhà nước, hoàn thiện thể chế kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong kỷ nguyên mới.

Về lộ trình sửa Hiến pháp, Điều 120 Hiến pháp 2013 quy định rõ, Quốc hội quyết định việc sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

Để sửa Hiến pháp, Quốc hội sẽ thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định.

Đây là lộ trình hiến định, do đó, các cơ quan cần hết sức tập trung nhân lực, vật lực để triển khai thực hiện.

Nhưng nếu thực hiện theo đúng lộ trình này liệu có đảm bảo tinh thần "vừa chạy, vừa xếp hàng" như Tổng Bí thư yêu cầu và Trưởng Ban Tổ chức Trung ương cũng đã lưu ý việc sắp xếp bộ máy chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện phải nghiên cứu nhanh để báo cáo Trung ương, thưa ông?

Tôi tin rằng, các đại biểu Quốc hội sẵn sàng làm ngày, làm đêm để đáp ứng yêu cầu “vừa chạy, vừa xếp hàng” của Tổng Bí thư.

Trong trường hợp thật cần thiết, chúng tôi cho rằng cũng cần tính đến việc kéo dài nhiệm kỳ hiện nay của một số cấp ủy Đảng cũng như của Quốc hội và chính quyền địa phương cho đến khi hoàn thiện việc sắp xếp để khi vào nhiệm kỳ mới, nước ta có hệ thống chính trị, bộ máy tổ chức mới. Giải pháp này hoàn toàn có cơ sở chính trị và pháp lý.

Đối với các tổ chức Đảng, Điều lệ Đảng (Điều 15, 18) cho phép triệu tập đại hội đại biểu muộn hơn không quá 1 năm.

Đối với Quốc hội, Hiến pháp (Điều 71) quy định trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá 12 tháng, trừ trường hợp có chiến tranh.

Đối với HĐND, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương (Điều 10 Luật hiện hành, Điều 5 Luật sửa đổi 2025) giao Ủy ban Thường vụ quyết định việc kéo dài nhiệm kỳ của HĐND.

Thu Hằng

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/nhung-van-de-dat-ra-khi-thuc-hien-sap-nhap-tinh-bo-cap-huyen-2375466.html