Bước tiến xanh cho đô thị: Hướng đến giảm 20% bụi mịn PM2.5 vào năm 2030

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất giảm ít nhất 20% nồng độ bụi mịn PM2.5 tại Hà Nội và nâng cao chất lượng không khí tại các đô thị lớn, song thách thức về nguồn lực và phối hợp vẫn còn lớn.

Đến năm 2030, mục tiêu giảm ít nhất 20% nồng độ bụi mịn PM2.5 so với năm 2024 được đề ra trong dự thảo kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm môi trường không khí giai đoạn 2025 - 2030 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, dự kiến trình Chính phủ ban hành vào tháng 12/2025.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Theo dự thảo, nồng độ bụi mịn PM2.5 trung bình năm tại Hà Nội sẽ giảm ít nhất 20%, tương đương từ mức 47 µg/m³ xuống còn khoảng 37 µg/m³.

Đối với các tỉnh xung quanh Hà Nội như Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Phòng, Ninh Bình, mục tiêu là giảm tối thiểu 10% nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm vào năm 2030 so với năm 2024.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh rằng, giai đoạn chuyển từ nước đang phát triển sang nước phát triển là lúc phải đối mặt với thách thức môi trường lớn nhất, khi tốc độ phát thải tăng cao hơn khoảng 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Vấn đề ô nhiễm đáng quan tâm nhất hiện nay là bụi và bụi mịn PM2.5. Tại các đô thị lớn như Hà Nội và TP.HCM, trong các tháng cuối năm (sau tháng 10), số ngày nồng độ bụi PM2.5 vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia chiếm khoảng 35% tổng số ngày trong “kỳ ô nhiễm”, trong khi số ngày có chất lượng không khí tốt chỉ chiếm khoảng 22% trong năm.

Riêng Hà Nội, nồng độ bụi mịn PM2.5 trung bình năm vào khoảng 47 µg/m³, gấp gần 2 lần so với ngưỡng cho phép 25 µg/m³. Việc giảm 20% trong 10 năm tới sẽ đưa chỉ số này về khoảng 37 µg/m³, tuy là bước cải thiện rõ rệt nhưng vẫn chưa đạt ngưỡng an toàn.

Mục tiêu này không chỉ là bài toán số học mà còn đặt ra câu hỏi “chúng ta có dám hành động và đủ công cụ để thực thi?”.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khẳng định việc chuyển từ đề án sang kế hoạch hành động quốc gia là thay đổi về cách tiếp cận, từ Trung ương làm hết, chuyển sang giao rõ việc và phân cấp trách nhiệm cho địa phương và các ngành.

Ông nhấn mạnh cần chuyển từ phản ứng sang chủ động kiểm soát, từ xử lý sự vụ sang lập kế hoạch dài hạn. Đây là thời điểm “không thể chần chừ”, bởi nếu không hành động ngay, hậu quả môi trường sẽ khiến Việt Nam phải trả giá đắt về sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế trong tương lai.

Nói thêm về điều này, ông Hoàng Văn Thức, Cục trưởng Cục Môi trường cho biết, để đạt được mức 37 µg/m³ có thể trong 5 năm tới phải áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt hơn, đồng thời phải giải quyết đồng thời nhiều nguồn phát thải như giao thông, xây dựng, công nghiệp và đốt phụ phẩm nông nghiệp. Mặc dù các nhóm nguồn chính đã được xác định nhưng công tác kiểm soát hiện vẫn còn nhiều khó khăn và thiếu đồng bộ giữa các địa phương.

Tính đến giữa năm 2025, mới có 20 trên 63 tỉnh, thành phố ban hành kế hoạch quản lý chất lượng không khí, một điều luật bắt buộc theo Luật Bảo vệ môi trường 2020.

Về dữ liệu và năng lực vận hành, TS.Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới Không khí Sạch Việt Nam cảnh báo rằng, nhiều trạm quan trắc hiện nay xuống cấp và không được sửa chữa kịp thời. Có trạm phải chờ tới 2-3 tháng mới được duyệt kinh phí, khiến dữ liệu bị gián đoạn và mất độ tin cậy, đây là điểm nghẽn lớn.

Bắc Kinh từng là thành phố ô nhiễm nghiêm trọng do phát triển công nghiệp và đô thị nhanh, mật độ giao thông dày đặc và sử dụng nhiên liệu hóa thạch rộng rãi.

Trong hơn 20 năm (1998 - 2018), Bắc Kinh đã xây dựng hệ thống quản lý chất lượng không khí toàn diện và hiệu quả, giúp giảm đáng kể hàm lượng các chất ô nhiễm. Năm 2023, nồng độ PM2.5 tại thủ đô Trung Quốc giảm còn 33 µg/m³, với chỉ số AQI trung bình dưới 50, trở thành hình mẫu cải thiện không khí đô thị.

Thành tựu này có được nhờ hệ thống mạng lưới quan trắc dày đặc, nâng cao khả năng dự báo và cảnh báo ô nhiễm, xác định chính xác điểm nóng ô nhiễm để ứng phó kịp thời.

Ở Việt Nam, mạng lưới quan trắc không khí quốc gia hiện có 27 trạm tiêu chuẩn, trong đó Hà Nội có 3 trạm, và 7 trạm đã hoạt động trên 10 năm khiến độ chính xác giảm. Đối với quan trắc khí thải công nghiệp, chỉ có 58% trong tổng số 581 trạm tự động truyền dữ liệu về Bộ đạt yêu cầu, còn lại có trạm bị mất kết nối hoặc dừng hoạt động.

Cục trưởng Cục Môi trường cho biết Việt Nam, thiếu nguồn lực để duy trì vận hành thường xuyên, liên tục cho các trạm quan trắc này.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy ngoài các trạm cơ bản, cần mở rộng mạng lưới quan trắc bằng các trạm cảm biến nhỏ gọn để tăng cường độ phủ và khả năng dự báo. Việc tăng cường hệ thống quan trắc sẽ giúp phối hợp liên vùng, liên tỉnh hiệu quả hơn, tuy nhiên hiện vẫn chưa đồng bộ và thiếu thiết chế quản lý nhất định.

Kế hoạch hành động cũng đặt ra nhiều giải pháp cụ thể như 100% các nguồn phát thải lớn thuộc các ngành sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường như xi măng, nhiệt điện, luyện thép được quản lý, kiểm soát và có lộ trình giảm phát thải; 100% phương tiện giao thông tại Hà Nội và TP.HCM được kiểm soát khí thải và chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sạch;

100% xe buýt tại Hà Nội sử dụng điện hoặc năng lượng xanh vào năm 2030; kiểm soát chặt chẽ bụi tại 100% công trường xây dựng nội đô; chấm dứt hiện tượng đốt chất thải, đốt ngoài trời phụ phẩm nông nghiệp và 100% cơ sở tôn giáo có giải pháp giảm đốt vàng mã.

Tuy nhiên, theo ông Thức, vấn đề then chốt vẫn là nguồn lực tài chính, công nghệ và con người. Ngân sách môi trường ở nhiều tỉnh còn hạn chế, sự tham gia của tư nhân, người dân và doanh nghiệp chưa được kích hoạt hiệu quả.

D.Ngân

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/buoc-tien-xanh-cho-do-thi-huong-den-giam-20-bui-min-pm25-vao-nam-2030-d324864.html