Cà phê Việt Nam - Brazil: Hợp tác cùng phát triển
Việt Nam đã trở thành nước đứng đầu về cà phê vối (Robusta) và ở vị trí thứ 2 thế giới về sản xuất, xuất khẩu cà phê, chỉ sau Brazil cường quốc cà phê.
Nguồn gốc cà phê thế giới
Người ta tin rằng tỉnh Kaffa của Ethiopia chính là vùng đất khởi nguyên của cây cà phê. Từ thế kỷ 9 người ta đã nói đến loại cây này ở đây. Vào thế kỷ 14 những người buôn nô lệ đã mang cà phê từ Ethiopia sang vùng Ả Rập. Nhưng tới tận giữa thế kỷ 15 người ta mới biết rang hạt cà phê lên và sử dụng nó làm đồ uống.
Theo Wikipedia, một truyền thuyết đã được ghi lại trên giấy vào năm 1671, những người chăn dê ở Kaffa (thuộc Ethiopia ngày nay) phát hiện ra một số con dê trong đàn sau khi ăn một cành cây có hoa trắng và quả màu đỏ đã chạy nhảy không mệt mỏi cho đến tận đêm khuya. Họ bèn đem chuyện này kể với các thầy tu tại một tu viện gần đó. Khi Kaldi - một người chăn dê ăn thử loại quả màu đỏ đó, anh ta đã xác nhận công hiệu của nó. Sau đó các thầy tu đã đi xem xét lại khu vực ăn cỏ của bầy dê và phát hiện ra một loại cây có lá xanh thẫm và quả giống như quả anh đào. Họ uống nước ép ra từ loại quả đó và tỉnh táo cầu nguyện chuyện trò cho đến tận đêm khuya. Như vậy có thể coi rằng nhờ chính đàn dê này con người đã biết được cây cà phê.
Tiếp đó, Omar là thầy tu bị Thánh bảo hộ Shaddali kỷ luật đưa vào núi đày và phát hiện ra một loại cây có loại quả ăn vào kích thích kỳ lạ.
Trên thực tế, cây cà phê được trồng độc quyền đầu tiên ở bán đảo Ả Rập (gồm các quốc gia ngày nay như Yemen, Oman, Qatar, Ả Rập Saudi, Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất...) từ thế kỷ 15. Trung tâm giao dịch cà phê là thành phố cảng Mocha, hay còn được gọi là Mokka, tức là thành phố Al Mukha thuộc Yemen ngày nay.
Mãi tới nửa sau thế kỷ 17 cà phê mới được đưa ra khỏi Ethiopia và Yemen, đi trồng ở các lục địa: châu Á, châu Mỹ (1857, 1876 và 1752) hay châu Úc. Hầu hết cà phê là do các cố đạo, thầy tu và một số sĩ quan quân đội Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đưa vào.
Cà phê Brazil
Châu Mỹ là lục địa sản xuất trên 60% cà phê toàn cầu, trong đó Brazil là cường quốc số 1 thế giới về sản xuất và thứ 2 thế giới về tiêu thụ cà phê. Brazil cũng là cường quốc cà phê chè (cà phê Arabica).
Lịch sử cho thấy, cây cà phê thích hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của Brazil. Từ năm 1752, cà phê được đưa vào trồng phổ biến ở Para, Amazonas, Rio de Janeiro, Sao Paulo (trên 250 năm lịch sử). Brazil có diện tích trồng cà phê khoảng 8,3 triệu hecta; năng suất bình quân 1,2 - 1,5 tấn/ha và sản lượng 10 - 13 triệu tấn/năm, chiếm 25 - 27% sản lượng toàn cầu.
Brazil có 3,5 triệu người trồng cà phê (trong tổng số 15 triệu dân); 220.000 - 250.000 trang trại cà phê (là điều mơ ước của Việt Nam). Bang Xinas Genais có trên 75.000 trang trại, Espirito Santo: 48.000, Sao Paulo: 29.000, Parana: 25.000; trong đó 69% số trang trại có diện tích 10ha; 4% số trang trại có diện tích trên 50ha. Đồn điền có 2 loại: nhỏ hơn 200ha và lớn hơn 200ha. Ở Brazil người ta hay tính số cây hơn là diện tích (khoảng 2.500 - 2.600 cây/ha).
Cà phê Brazil, hơn 55% sản lượng được tổ chức cơ giới hóa. Có 6 bang trồng cà phê chủ yếu, là Minas Gerais, Sao Paulo, Espirito Santo, Parana, Bahia và Rondonia. Có trên 200 nhà xuất khẩu cà phê (cà phê vối) và trên 3.500 nhà rang xay cà phê cung cấp cho trên 3.000 hãng cà phê. 75 - 80% cà phê của Brazil được xuất khẩu, còn lại 20 - 25% được chế biến và tiêu thụ trong nước.
Sản lượng xuất khẩu hằng năm đạt trên 20 - 25 triệu bao (60kg/bao). Brazil có Ủy ban thảo luận đề xuất chính sách cà phê Brazil (CDPC); có Quỹ bảo vệ kinh tế cà phê FUNCAFÉ (vốn 1,1 tỉ USD năm 1998). Chính phủ thông qua FUNCAFÉ, hằng năm đầu tư tài chính, hỗ trợ cho các hoạt động cà phê (trồng trọt, thu hoạch, nghiên cứu, chế biến…).
Brazil tuyên bố, sản xuất cà phê ở Brazil là khuôn mẫu cho ngành sản xuất cà phê bền vững cả về môi trường và xã hội. Ngành cà phê Brazil có thể tự hào rằng đất nước Brazil lớn lên cùng với cà phê, và những thành tựu to lớn hôm nay không thể bắt đầu nếu không có ảnh hưởng to lớn của cà phê. Đây là vấn đề Việt Nam phải học hỏi và hợp tác.
Cà phê Việt Nam
Khoảng năm 1857, các quan chức và cố đạo Pháp, Bồ Đào Nha đã đưa cà phê vào khu vực Đông Dương. Ở Việt Nam, theo ghi chép của Yves Henry, tác giả cuốn Kinh tế nông nghiệp Đông Dương, năm 1852 cà phê được đưa vào trồng thử ở vùng Quảng Bình, Quảng Trị.
Khoảng năm 1870, Tu viện Kẻ Sở (Hà Nam) cũng đã trồng thử cà phê. Năm 1888, các lính viễn chinh Pháp giải ngũ lập lên những trang trại cà phê đầu tiên như: Borel Lêconte ở Chi Nê (Hòa Bình); Coudeux Gombert (Nghệ An); Micheal Philip (Quảng Trị); Rossi Delfante (Đắk Lắk)…
Đến khoảng năm 1920 - 1925, người Pháp phát hiện vùng cao nguyên Trung phần miền Nam Việt Nam với đất đỏ bazan và đưa cà phê lên trồng và trở thành vùng cà phê tốt nhất, lớn nhất Việt Nam, thủ phủ cà phê vối của thế giới: Theo thứ tự về năm, diện tích (ha), năng suất (tấn/ha), sản lượng (tấn), ta có: 1945: 10.700, 0,3 - 0,4, 3.500 - 4.500. 1975: 20.000, 0,5 - 0,6, 10.000 - 12.000. 2014: 575.000, 2 - 2,5, 1,6 - 1,7 triệu. Việt Nam đã trở thành cường quốc của thế giới về cà phê vối (Robusta) và là cường quốc thứ 2 thế giới về sản xuất, xuất khẩu cà phê sau Brazil, với kim ngạch trên 3,4 tỉ USD.
Việt Nam xuất khẩu trên 90% cà phê nhân, bắt đầu có cà phê bột và cà phê hòa tan. Tuy nhiên, giá cà phê nhân xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn Brazil. Người Việt Nam uống cà phê ít hơn người Brazil (tiêu thụ trong nước khoảng 7 - 8% sản lượng). Khoảng 8% diện tích cà phê là ở các nông trường quốc doanh. Hằng năm chính phủ cũng có một số chính sách cho cà phê như tạm trữ cà phê nhân; đầu tư cho nghiên cứu các đề tài cà phê; chương trình tái canh cà phê… nhưng mang lại hiệu quả thấp.
Hướng hợp tác giữa Việt Nam - Brazil cho ngành cà phê
Với quan hệ trên các lĩnh vực như chính trị, ngoại giao, kinh tế, khoa học - công nghệ... đã và đang phát triển của hai nước, với thế mạnh (lợi thế) của hai cường quốc cà phê và với kinh nghiệm, chính sách, thành công của hai nước về cà phê, chúng ta nên hợp tác cùng phát triển ngành cà phê theo hướng:
- Nên có một hiệp định hoặc một nghị định thư về hợp tác phát triển ngành cà phê của Việt Nam và Brazil.
- Nên tổ chức thường xuyên, định kỳ các hoạt động cho ngành cà phê: Tham quan, học hỏi, phổ biến kinh nghiệm, trao đổi thành tựu; tổ chức hội thảo, xuất nhập khẩu cà phê sản phẩm, thiết bị liên quan đến cà phê cho nhau; cùng góp tiếng nói mạnh mẽ, đồng thuận trong các kỳ họp ICO (Hội đồng Cà phê quốc tế).
- Nên bắt tay nhau để yêu cầu các nhà thu mua, phân phối cà phê nhân thế giới (Thế giới da trắng) đảm bảo giá xuất khẩu FOB cà phê của mỗi nước, tránh bị ép giá, hạ phẩm cấp làm thiệt hại cho nông dân và các nhà xuất khẩu cà phê của hai nước.
- Hai bộ nông nghiệp; hai phòng thương mại và công nghiệp; hai hiệp hội cà phê - ca cao Việt Nam (VICOFA) và Ủy ban thảo luận đề xuất chính sách cà phê Brazil (CDPC), Hội Hữu nghị hợp tác Việt Nam - Brazil và Hội Hữu nghị Brazil - Việt Nam; sứ quán, đại diện thương mại hai nước nên có hợp tác cụ thể, có định hướng chiến lược “Cùng đoàn kết phát triển cà phê”.
- Các doanh nghiệp cà phê hàng đầu của hai nước cần thường xuyên trao đổi hợp tác, từ thông tin tới hoạt động khác nhằm giữ vị thế số 1 và số 2 thế giới về cà phê của Việt Nam và Brazil; cùng nhau vì sự phồn vinh của ngành cà phê thế giới.
- Giới truyền thông của hai nước phải vào cuộc để quảng bá hình ảnh hai quốc gia cà phê; tuyên truyền cho thế giới hiểu, biết và thuyết phục người mua, uống, thưởng thức hương vị đậm đà của cà phê hai nước, với hai vùng nhiệt đới, hai nửa trái đất, nam bán cầu.
TS Nguyễn Văn Lạng - nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk
Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/ca-phe-viet-nam-brazil-hop-tac-cung-phat-trien-204740.html