Các kỳ Đại hội của Đảng và những dấu ấn lịch sử - Đại hội lần thứ I: Vạn sự khởi đầu nan

Trải qua 95 năm kể từ khi ra đời, Đảng ta đã trải qua 13 kỳ đại hội. Mỗi kỳ Đại hội của Đảng gắn với những nhiệm vụ chính trị khác nhau nhưng đều là những dấu mốc quan trọng về sự phát triển lớn mạnh của Đảng và đất nước. Trong dòng chảy lịch sử đó, Đại hội lần thứ I của Đảng năm 1935 là 'Vạn sự khởi đầu nan', mang nhiều ý nghĩa quan trọng.

Diễn ra trong bối cảnh đặc biệt

Sau khi Xô viết Nghệ - Tĩnh bị thất bại, thực dân Pháp càng ráo riết khủng bố, đàn áp hòng dập tắt phong trào cách mạng và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng ngàn chiến sĩ cộng sản bị giết, bị tù đày, giam giữ. Riêng ở Bắc Kỳ trong hai năm 1930-1931, chính quyền thực dân Pháp và tay sai đã mở 21 phiên tòa đại hình, xử 1.094 án, trong đó có 64 án tử hình, 114 án khổ sai, 420 án lưu đày biệt xứ. Tháng 5-1933, tòa án ở Sài Gòn đã mở phiên tòa kết án 8 án tử hình, 19 án tù chung thân, ngót 100 án tù từ 5 năm đến 20 năm. Trong các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), và các nhà tù: Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Kon Tum - Những “địa ngục trần gian” giam chật các chiến sĩ cộng sản. Chỉ riêng nhà tù Côn Đảo, năm 1930 có 1.992 người tù; năm 1931 có 2.146 người; năm 1932 có 2.276 người; năm 1933 có 2.483 người; năm 1934 có 2.818 người. Biết bao chiến sĩ cộng sản đã ngã xuống bởi chế độ nhà tù hà khắc và bọn cai ngục gian ác. Từ năm 1930 đến năm 1933, ở nhà tù Côn Đảo đã có 708 chiến sĩ cộng sản hy sinh. Ở nhà tù Sơn La trong vòng 8 tháng năm 1933 đã có 43 tù nhân bị giết hại.

Dù bị mọi cực hình tra tấn đày ải hay lúc cổ kề máy chém, các chiến sĩ cộng sản vẫn kiên trung, bất khuất, nêu cao khí tiết của người cộng sản, kiên quyết bảo vệ Đảng, giữ vững ý chí chiến đấu. Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, các chiến sĩ cộng sản đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để học tập lý luận, rèn đúc ý chí đấu tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng thêm cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”[1]. Các đảng viên thoát khỏi sự vây bắt của địch, kiên trì dựa vào sự che chở, đùm bọc của quần chúng cách mạng, bí mật hoạt động khôi phục lại hệ thống tổ chức của Đảng, củng cố và phát triển phong trào quần chúng.

Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản của các nước: Trung Quốc, Liên Xô, Pháp, Thái Lan... đã tích cực giúp đỡ những người cộng sản ở Đông Dương. Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong cùng một số đảng viên còn lại ở trong nước và ngoài nước tổ chức ra Ban Lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6-1932, bản Chương trình Hành động của Đảng và các chương trình hành động của các tổ chức quần chúng được công bố.

Chương trình Hành động của Đảng đánh giá hai năm đấu tranh của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng và khẳng định: Con đường giải phóng duy nhất của nhân dân Đông Dương chỉ là con đường võ trang tranh đấu của quần chúng thôi. Để lãnh đạo quần chúng đấu tranh thích hợp với những điều kiện lịch sử mới, Chương trình hành động của Đảng nêu ra các yêu cầu trước mắt: (1) Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, hội họp, đi lại. (2) Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình (3) Bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác (4) Bỏ độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện.

Dựa theo Chương trình Hành động của Đảng, các tổ chức cơ sở đảng đã sử dụng các hình thức tổ chức thích hợp để tập hợp quần chúng và qua đó giáo dục, tổ chức quần chúng đấu tranh dưới các hình thức khác nhau. Một điều đặc sắc là đa số các cuộc đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo đều giành được thắng lợi hoàn toàn hoặc từng phần, khiến cho quần chúng thêm hăng hái đấu tranh.

Về mặt tổ chức đảng, các đảng viên của Đảng đã bám sát dân, duy trì cơ sở đảng ở Cao Bằng, Hà Nội, Sơn Tây, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi và nhiều nơi khác ở Nam Bộ. Nhiều tỉnh ủy, thành ủy lần lượt được khôi phục. Các xứ ủy Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ cũng được lập lại. Xứ ủy Lào cũng được thành lập vào tháng 3-1934...

Tháng 3-1934, được sự giúp đỡ của Đông phương Bộ Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập “giữ vai trò là người lãnh đạo, người tổ chức, sẽ tổ chức lại cơ quan lãnh đạo Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương”3. Vì vậy, ngay sau khi thành lập, Ban Chỉ huy ở ngoài đã đưa vào chương trình công tác là chuẩn bị triệu tập Đại hội Đảng. Sau 3 tháng hoạt động, Ban Chỉ huy ở ngoài đã tổ chức Hội nghị Đảng ở Ma Cao (từ ngày 16-6 đến ngày 21-6-1934) giữa Ban Chỉ huy ở ngoài với đại diện các tổ chức đảng trong nước và ra quyết định: “Từ Hội nghị Đảng cho tới tháng 1-1935 phải thành lập xong tất cả các xứ ủy và xứ ủy sẽ cử đại biểu đi dự đại hội Đảng vào mùa xuân năm 1935”4.

Quyết định nhiều vấn đề quan trọng

Đại hội đại biểu lần thứ Nhất Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 tại một địa điểm ở phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc). Dự Đại hội có 13 đại biểu thuộc các đảng bộ trong nước và tổ chức của Đảng hoạt động ở nước ngoài đại diện cho 552 đảng viên3. Thành phần của 13 đại biểu tham dự Đại hội lần thứ Nhất: 2 đại biểu của Ban Chỉ huy ở ngoài; 3 đại biểu đến từ Cao Miên, Nam Kỳ và Trung Kỳ; 1 đại biểu của Lào; 2 đại biểu của Bắc Trung Kỳ; 2 đại biểu của Bắc Kỳ (cuối Đại hội mới tới); 3 đại biểu đến từ Xiêm (1 đại biểu người Xiêm, 1 đại biểu người Tàu và 1 đại biểu người Việt Nam)[2].

Macau (Trung Quốc) - nơi diễn ra Đại hội lần thứ I của Đảng (27 - 31/3/1935). Ảnh: Tư liệu/TTXVN

Macau (Trung Quốc) - nơi diễn ra Đại hội lần thứ I của Đảng (27 - 31/3/1935). Ảnh: Tư liệu/TTXVN

Trong thời gian này, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã sang Liên Xô, vào học ở Trường Quốc tế Lênin. Các đồng chí: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nõn đi Moskva dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản. Đồng chí Hà Huy Tập là một trong những người lãnh đạo chủ chốt của Ban Chỉ huy ở ngoài đã chủ trì Đại hội.

Đại hội đại biểu lần thứ Nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương đã đánh giá tình hình thế giới và trong nước, nêu bật những thành công của Liên Xô và phong trào cách mạng của nhân dân lao động nhiều nước trên thế giới, khẳng định chủ nghĩa xã hội là tất yếu lịch sử. Đối với Việt Nam, Đại hội kiểm điểm phong trào cách mạng, công tác tổ chức và lãnh đạo của Đảng trong những năm qua.

Đại hội nhận định hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục, Đảng đã thành lập được cơ quan đầu não, nhiều đảng bộ tỉnh mới ở miền thượng du Bắc Bộ, Lào, lập các tổ chức cơ sở ở Cao Miên, đào tạo được nhiều cán bộ mới. Song hệ thống tổ chức liên lạc của Đảng vẫn chưa được thống nhất, tổ chức cơ sở đảng chưa phát triển mạnh ở các vùng công nghiệp, đồn điền, mỏ, thành phần công nhân trong Đảng còn ít. Công tác tư tưởng, tuyên truyền, huấn luyện tuy đạt một số kết quả, nhưng còn thiếu sót.

Đại hội nhận xét phong trào cách mạng có tiến triển. Các cuộc đấu tranh của quần chúng ở Lào, Nam Kỳ, Trung Kỳ khoảng hai năm qua đều giành được thắng lợi ở mức độ khác nhau. Sự lãnh dạo của Đảng được khôi phục: “Trong khoảng hai năm nay Đảng ta lại chiếm địa vị ưu thế trong các cuộc tranh đấu có tính chất tổ chức của quần chúng”. Đồng thời, trên cơ sở nhận rõ ưu điểm và khuyết điểm của công tác Đảng, Đại hội nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của toàn Đảng:

Một là, phát triển và củng cố Đảng: Đảng cần củng cố lực lượng hiện tại, tăng cường phát triển Đảng ở các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, kết nạp thêm nông dân và trí thức. Phải đưa thêm nhiều đảng viên xuất thân từ thành phần công nhân vào các cơ quan lãnh đạo, bảo đảm tính giai cấp. Ban Chấp hành Trung ương Đảng được ủy quyền đào tạo cán bộ dự bị mới cho Đảng. Để thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình chống tả khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật Đảng.

Hai là, thu phục quần chúng: Đại hội coi thu phục rộng rãi quần chúng là nhiệm vụ trung tâm cơ bản, trước mắt của Đảng. Các đảng bộ phải bênh vực quyền lợi thiết thân của quần chúng, quan tâm đến các dân tộc thiểu số, thanh niên, phụ nữ và quần chúng lao động ngoại kiều; phải củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, lợi dụng các hình thức công khai và nửa công khai để xây dựng và phát triển các tổ chức quần chúng lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

Ba là, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô, Trung Quốc: Đại hội đã thông qua Nghị quyết Chính trị của Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, các dân tộc thiểu số, về Mặt trận Phản đế, Đội tự vệ, Cứu tế đỏ... và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức quần chúng của Đảng.

Đại hội đã bầu “Ban Trung ương chính thức gồm 13 người (9 người chính thức và 4 người dự bị) để chỉ đạo tất thảy công tác toàn Đảng”2. Trên thực tế, Đại hội chỉ bầu được 12 người, còn 1 người của Ban Chấp ủy Trung Kỳ sẽ chỉ định sau. Ban Trung ương cử ra Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí, do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng thư ký (Tổng Bí thư).

Đại hội đại biểu lần thứ Nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng. “Đại hội đã diễn ra dưới khẩu hiệu tự phê bình theo tinh thần Bolshevik. Tất cả các đại biểu đều tích cực tham gia phê bình các khuyết điểm và nhược điểm của mình”1. Đại hội đã khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước. Đồng thời, “do công tác Đảng được cải thiện mà thành phần xã hội của Đảng được cải thiện”2: Nếu trong Hội nghị tháng 6-1934, số lượng công nhân không đáng kể thì sau Đại hội “có 35% công nhân, 65% nông dân, thợ thủ công, viên chức và các thành phần khác” còn trong cơ quan lãnh đạo Đảng có “62% công nhân, 23% trí thức và 15% nông dân”3.

Việc thông qua Nghị quyết chính trị và các nghị quyết về công tác vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh sĩ…, Đại hội đã quy tụ được các phong trào, các tổ chức hoạt động phân tán trong toàn quốc vào một mối duy nhất, thống nhất được phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân khác dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã đem lại cho toàn thể đảng viên và quần chúng cách mạng niềm tin vào sự thắng lợi của cách mạng trong tương lai, chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đấu mới.

Đại tá, PGS,TS NGUYỄN VĂN SÁU, Phó viện trưởng Viện Lịch sử quân sự

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.402.

3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999, tr.400.

4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 5, Sđd, tr.400.

3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 5, Sđd, tr.195. (Số lượng đảng viên: Hà Nội: 30; Hòn Gay: 3; Lạng Sơn: 30; Hà Giang: 4; Cao Bằng: 201; Thái Nguyên: 3; Nam Trung Kỳ: 47; Nghệ An: 96; Đông Nam Kỳ: 80; Tây Nam Kỳ: 17; Cao Miên: 9; Lào: 32)

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 5, Sđd, tr.192.

2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 205.

1 Thư của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương (ngày 31-3-1935) gửi Quốc tế Cộng sản, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 5, Sđd, tr.193-194; 1...Semi công nhân (nửa công nhân - Tg), ủy viên của Ủy ban liên địa phương Nam Kỳ. 2. Công nhân (thợ mộc), xứ ủy viên Nam Kỳ. 3. Nông dân nghèo Thổ (dân tộc thiểu số), thư ký Xứ ủy Bắc Kỳ (dự khuyết). 4… công nhân thợ mộc Thổ, xứ ủy viên Bắc Kỳ. 5… người nấu bếp, thư ký Xứ ủy Lào. 6. Thợ máy, người Lào, xứ ủy viên Lào (dự khuyết). 7. Thợ nề, thư ký Tỉnh ủy Nghệ An. 8. Trí thức, lãnh đạo tổ chức Đảng ở Bắc Trung Kỳ (dự khuyết). 9. Một thành viên khác của Xứ ủy Trung Kỳ (không rõ nghề nghiệp) do Ban Trung ương chỉ định.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.301.

2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.301.

3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, Tập5, tr.301-302.

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/cac-ky-dai-hoi-cua-dang-va-nhung-dau-an-lich-su-dai-hoi-lan-thu-i-van-su-khoi-dau-nan-813459