Các ngân hàng trung ương hành động để tránh một cuộc khủng hoảng ngân hàng
Nhiều người đang nhận ra có điều gì đó không ổn khi 6 ngân hàng trung ương lớn từ khắp nơi trên thế giới quyết định chung tay trấn an thị trường tài chính vào một đêm Chủ nhật (19/3).
Vài giờ sau khi UBS tuyên bố sẽ mua lại Credit Suisse với giá 3,25 tỷ USD, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) cùng với Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), Ngân hàng Anh (BoE), Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ (SNB), Ngân hàng Canada (BoC) và Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) đã công bố các biện pháp mới để đảm bảo có đủ tài chính cho các tổ chức tài chính toàn cầu trong điều kiện thị trường căng thẳng hiện nay.
Nhà kinh tế học người Mỹ Nouriel Roubini đã nhắc tới biện pháp này trong một tweet mới đây.
"Việc sử dụng các hệ thống hoán đổi quốc tế của Fed tăng đột biến trong các giai đoạn rủi ro nghiêm trọng khi thiếu thanh khoản đồng đô la toàn cầu: GFC, khủng hoảng EZ, temper tantrum, cú sốc Covid tháng 3/2020. Do đó, một biến cố đột biến khác có thể xảy ra ngay bây giờ. Đây là lý do tại sao các ngân hàng trung ương phối hợp hành động ngày hôm nay”, nhà kinh tế Roubini đã tweet vào tối Chủ nhật (19/3).
Trong đó, GFC đề cập đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2007 đến 2009, cuộc khủng hoảng EZ là cuộc khủng hoảng nợ công Khu vực đồng tiền chung châu Âu từ năm 2009 trở đi, temper tantrum đề cập đến đợt hoảng loạn trên thị trường tài chính năm 2013 và cú sốc Covid tháng 3/2020 là khi toàn cầu thị trường trở nên hỗn loạn trong giai đoạn đầu của đại dịch.
Có thể quá tiêu cực khi nghĩ rằng tình hình thị trường hiện tại tương tự như các giai đoạn rủi ro Roubini vừa đề cập, nhưng các sự kiện trong hai tuần qua đã khiến các nhà đầu tư cả tổ chức và cá nhân lo lắng về sự ổn định tài chính và số phận của nền kinh tế.
Cụ thể, chỉ trong vòng chưa đầy hai tuần, ba ngân hàng Mỹ là Silvergate, SVB, Signature Bank và ngân hàng lớn thứ hai của Thụy Sĩ là Credit Suisse đã sụp đổ, làm dấy lên lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính toàn diện.
Vậy cuộc khủng hoảng này lớn đến mức nào?
Nigel Green, CEO của The deVere Group cho biết trong một báo cáo vào thứ Hai (20/3): “Bất chấp những sóng xung kích, chúng tôi cho rằng cuộc khủng hoảng ngân hàng cuối cùng có thể chứng minh là có lợi cho thị trường toàn cầu vì một số lý do”.
Các dây cứu sinh khẩn cấp mà các cơ quan quản lý và chính phủ đã cung cấp cho các ngân hàng đã hạn chế mọi rủi ro lây lan trong lĩnh vực này và khả năng hỗn loạn lan rộng sang các công ty và lĩnh vực khác đã được ngăn chặn.
Tất cả bắt đầu với sự sụp đổ của Silvergate, SVB và Signature Bank ở Mỹ. Ngân hàng thân thiện với tiền điện tử Silvergate tuyên bố sẽ thanh lý tài sản, trước khi SVB bị cơ quan quản lý đóng cửa vào ngày 10/3 và đặt dưới sự kiểm soát của Tổng Công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC). Sau đó tới lượt Signature Bank cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự.
Mọi thứ diễn ra rất nhanh trong trường hợp của SVB - ngân hàng lớn thứ 16 của nước Mỹ. Ngay khi SVB thông báo cần huy động vốn, khách hàng hốt hoảng đổ xô rút tiền. Tốc độ khách hàng rút tiền từ SVB cho thấy tốc độ rút tiền của ngân hàng có thể diễn ra nhanh như thế nào trong thời đại kỹ thuật số.
Bộ Tài chính, Fed và Tổng thống Mỹ đã vội vàng trấn an người gửi tiền rằng tiền của họ vẫn an toàn. Tuy nhiên, một cuộc khủng hoảng khác đang âm ỉ ở châu Âu.
Các nhà đầu tư đã theo dõi sự suy giảm của Credit Suisse trong những năm qua, chủ yếu là do lỗi kế toán, liên quan đến nhiều vụ bê bối, thua lỗ hàng tỷ đô la và hơn thế nữa. Nhưng sự sụp đổ của SVB làm trầm trọng thêm những lo ngại đó khi các nhà đầu tư bắt đầu tìm kiếm các ngân hàng khác có thể ở vị trí tương tự.
"Một sự chú ý gay gắt đã tập trung vào các ngân hàng trong tuần trước. Mặc dù vì nhiều lý do sai lầm, nhưng nó cũng nhấn mạnh với các nhà đầu tư rằng, các quy tắc được áp đặt sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 có nghĩa là hầu hết các ngân hàng đều ở một vị thế khó khăn để có thể chịu được những cú sốc”, ông Nigel Green cho biết.
Các ngân hàng trên toàn thế giới vẫn đang điều chỉnh để thích ứng với sự gia tăng mạnh của lãi suất. Những ngân hàng đã quen với việc vay với chi phí thấp trong nhiều năm do chế độ lãi suất cực thấp được duy trì bởi các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất đột ngột trong năm qua đã khiến những người đi vay gặp khó khăn trong việc quản lý danh mục đầu tư của họ.
Rabobank cho biết: "Tuần này trông giống như một bữa tiệc linh động, nhưng có vẻ như đặt cược an toàn rằng ngân hàng trung ương sẽ can thiệp nhiều hơn vào các lá bài và những thay đổi tiếp theo trong cấu trúc tài chính toàn cầu, với vai trò lớn hơn của chính phủ/các cơ quan quản lý", Rabobank cho biết trong một báo cáo.
Điều gì diễn ra tiếp theo?
Các nhà đầu tư sẽ theo dõi hai chủ đề lớn trên thị trường trong vài ngày tới để hiểu cuộc khủng hoảng ngân hàng sẽ diễn ra như thế nào.
Vào Chủ nhật (19/3), Credit Suisse cho biết, cơ quan quản lý Thụy Sĩ yêu cầu gần 17 tỷ USD khoản nợ cấp 1 (AT1) của ngân hàng phải được ghi xuống bằng 0 như một phần của thỏa thuận giải cứu.
Russ Mould, Giám đốc đầu tư tại AJ Mold cho biết: “Điều đó dường như đã khiến các nhà đầu tư hoảng sợ, dẫn đến việc bán tháo trái phiếu ngân hàng khác và đã ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Điều đó có nghĩa là cuộc khủng hoảng ngân hàng mà chúng ta chứng kiến trong vài tuần qua đã bắt đầu một chương mới thay vì đi đến hồi kết".
Trái phiếu AT1 hoặc Trái phiếu có thể chuyển đổi dự phòng (CoCo) về cơ bản là trái phiếu được chuyển đổi thành vốn chủ sở hữu khi bộ đệm vốn của ngân hàng giảm xuống dưới một mức nhất định. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) đã yêu cầu tất cả các ngân hàng châu Âu phải phát hành trái phiếu CoCo.
Sự kiện lớn thứ hai trong tuần này là quyết định lãi suất của Fed vào thứ Tư (22/3). Hầu hết các nhà kinh tế và những người theo dõi thị trường đã dự đoán Fed sẽ tăng lãi suất 25 điểm cơ bản và đưa lãi suất chuẩn của Fed lên 5%.
Tuy nhiên, hành động phối hợp từ Fed và 5 ngân hàng trung ương khác mới đây được nhiều người xem là một bước tiến tới việc tạm dừng tăng lãi suất. Trong khi các ngân hàng trung ương, cơ quan quản lý và chính phủ đã vào cuộc để ngăn chặn rủi ro lây lan, nhưng vẫn còn rất nhiều điều không chắc chắn về việc lạm phát cao, môi trường lãi suất cao sẽ tác động đến nền kinh tế toàn cầu như thế nào.
"Các ngân hàng trung ương biết rằng bên cạnh việc phải cố gắng kiểm soát lạm phát, họ cũng cần đảm bảo sự ổn định tài chính. Các sự kiện tuần trước làm lung lay niềm tin chắc chắn sẽ khiến họ phải tạm dừng. Khả năng ngừng tăng lãi suất sẽ được các thị trường toàn cầu hoan nghênh”, ông Nigel Green nhận định.