Cải thiện mức sinh thấp kỷ lục để kéo dài thời kỳ dân số vàng

Việt Nam đang đối mặt với xu hướng mức sinh thấp, chạm ngưỡng thấp kỷ lục vào năm 2024 khi tổng tỷ suất sinh giảm còn 1,91 con/phụ nữ. Mức sinh giảm sâu trong nhiều năm cùng với tốc độ già hóa diễn ra nhanh kéo theo hàng loạt thách thức, bao gồm nguy cơ đánh mất lợi thế dân số vàng. Trong bối cảnh đó, cải thiện mức sinh thấp kỷ lục được xem là giải pháp hữu hiệu giúp kéo dài và phát huy lợi thế thời kỳ dân số vàng.

Nguy cơ đánh mất lợi thế dân số vàng

Một quốc gia được xem là bước vào thời kỳ dân số vàng khi dân số trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 64 tuổi) nhiều gấp 2 lần dân số phụ thuộc (dưới 15 tuổi và trên 64 tuổi) hoặc tỷ số phụ thuộc chung dưới 50%. Thời kỳ này thường kéo dài từ 30 đến 35 năm, thậm chí có thể lâu hơn và chỉ xảy ra một lần duy nhất trong lịch sử nhân khẩu học của mỗi quốc gia. Vì vậy, nếu biết khai thác và phát huy hiệu quả lợi thế lực lượng lao động trẻ dồi dào, thời kỳ dân số vàng sẽ trở thành cơ hội để bứt phá, phát triển nhanh.

Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007 và ước tính kéo dài khoảng 30 - 35 năm. Đồng nghĩa với việc từng đấy năm, Việt Nam sở hữu lực lượng lao động trẻ dồi dào có khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy, kể từ khi bước vào thời kỳ dân số vàng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu mà không phải quốc gia nào khi bước vào thời kỳ này cũng làm được.

Tuy nhiên, chừng đó vẫn chưa đủ nếu Việt Nam muốn tận dụng tối đa cơ hội dân số vàng mang lại. Dù đã đi qua hơn nửa chặng đường, việc khai thác và phát huy hiệu quả lợi thế lực lượng lao động trẻ vẫn còn nhiều hạn chế, nền kinh tế vẫn nằm trong nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Thời kỳ dân số vàng đang có nguy cơ mất giá vì chính sách nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực chưa theo kịp tốc độ phát triển. Nếu không có sự thay đổi, khi thời kỳ dân số vàng khép lại, viễn cảnh người Việt Nam rơi vào tình trạng “chưa giàu đã già” là điều khó tránh khỏi.

Viễn cảnh này ngày càng hiện hữu khi Việt Nam đang bước vào giai đoạn biến động dân số mạnh mẽ với hai xu hướng song hành: tốc độ già hóa diễn ra nhanh chưa từng có và mức sinh giảm sâu. Tốc độ già hóa dân số tăng nhanh khiến Việt Nam trở thành một trong những nước có tốc độ già hóa nhanh nhất châu Á, thời gian chuyển từ giai đoạn già hóa dân số sang dân số già ngắn hơn so với các nước khác. Dự báo đến năm 2038, nghĩa là chỉ còn hơn 10 năm nữa, nước ta sẽ bước vào thời kỳ dân số già.

Cùng lúc đó, Việt Nam chứng kiến sự sụt giảm mạnh của mức sinh, đặc biệt tập trung tại các đô thị lớn. Năm 2021, tổng tỷ suất sinh của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đạt khoảng 2,11 con. Đến năm 2024 con số này giảm xuống chỉ còn 1,91 con/phụ nữ - mức sinh thấp nhất từ trước tới nay và là năm thứ 3 liên tiếp giảm dưới mức sinh thay thế (năm 2022 là 2,01 con/phụ nữ; năm 2023 là 1,96 con/phụ nữ). Đáng lo ngại hơn, dự báo mức sinh sẽ tiếp tục giảm sâu trong những năm tiếp theo.

Sự giao thoa của hai xu hướng này tác động trực tiếp, sâu sắc tới quy mô dân số, cơ cấu dân số, tỷ trọng trẻ em dưới 15 tuổi giảm, tỷ trọng người già ngày càng tăng, giai đoạn dân số vàng dần khép lại nhanh hơn. Chưa kể, nếu không duy trì được mức sinh thay thế, dự báo tỷ lệ tăng dân số sẽ tiếp tục giảm và đạt trạng thái “dừng” vào giai đoạn 2064 - 2069.

Điều này đồng nghĩa với việc đặt ra hàng loạt thách thức lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm cả nguy cơ đánh mất lợi thế dân số vàng. Khi đó, các lợi thế về lực lượng lao động trẻ vốn giúp Việt Nam phát triển nhiều năm qua dần biến mất, trong khi hệ thống an sinh xã hội và chăm sóc y tế phải đối mặt với áp lực ngày càng gia tăng.

Phản ứng chính sách kịp thời

Việt Nam đang trong quá trình già hóa dân số, song thời kỳ dân số vàng vẫn được dự báo kéo dài đến năm 2037. Đây là “khoảng thời gian quý giá” để đất nước tận dụng lợi thế nhân khẩu học vốn chỉ xảy ra một lần duy nhất. Để kéo dài và phát huy hiệu quả lợi thế thời kỳ này, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó việc cải thiện mức sinh thấp kỷ lục được xem là giải pháp then chốt. Tuy nhiên, muốn làm được điều đó cần nhìn thẳng vào những nguyên nhân sâu xa của thực trạng này.

Kết hôn được 5 năm, T.T (31 tuổi) và M.A (28 tuổi), hiện sinh sống tại Hà Nội, thường xuyên nhận được lời khuyên từ gia đình, bạn bè về việc sinh thêm con để “có anh, có em”. Song hai vợ chồng vẫn thống nhất chỉ dừng lại ở một con. “Không phải chúng tôi không muốn sinh thêm, mà là chưa đủ tự tin về điều kiện kinh tế cũng như khả năng chăm sóc để nuôi dạy thêm một đứa trẻ thật tốt. Trong bối cảnh chi phí sinh hoạt, nuôi con ngày càng tăng, cùng áp lực cắt giảm nhân sự, thu nhập không ổn định, vợ chồng tôi buộc phải cân nhắc kỹ và quyết định chỉ sinh một con”, T.T chia sẻ.

Câu chuyện của gia đình T.T và M.A cũng là bức tranh thu nhỏ của nhiều gia đình trẻ trong xã hội hiện nay. Thực trạng mức sinh thấp đã và đang phản ánh nhiều bất cập trong đời sống xã hội, từ áp lực kinh tế do chi phí sinh hoạt ngày càng tăng, đến sự thay đổi trong quan niệm về hôn nhân, gia đình. Cùng với đó, sự bùng nổ của công nghệ và lối sống hiện đại khiến không ít người trẻ lựa chọn trì hoãn, thậm chí từ bỏ việc lập gia đình và sinh con. Mức sinh thấp cũng cho thấy các chính sách, giải pháp hiện nay chưa đủ mạnh để tháo gỡ những rào cản thực tế như chi phí nuôi dạy con, áp lực nhà ở và gánh nặng sự nghiệp, những yếu tố đang đè nặng lên các gia đình trẻ.

Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải xây dựng và triển khai đồng bộ những chính sách mang tính căn cơ, thực chất hơn, trong đó trọng tâm là tạo lập môi trường thuận lợi để người trẻ “muốn sinh và dám sinh”. Trong bối cảnh đó, Luật Dân số mới được Quốc hội thông qua ngày 10/12/2025, có hiệu lực từ 1/7/2026, được xem là phản ứng chính sách kịp thời nhằm thể chế hóa các giải pháp phù hợp với mục tiêu duy trì mức sinh thay thế (2,1 con/phụ nữ).

Trước hết, Luật Dân số bổ sung quy định bãi bỏ cụm từ “Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ một đến hai con” tại khoản 1 Điều 43 của Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân. Như vậy, thay vì khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ có từ 1 đến 2 con như quy định cũ, luật mới trao quyền tự quyết về thời điểm, số lượng và khoảng cách sinh.

Ngoài chuyển đổi tư duy bằng cách công nhận quyền tự quyết định sinh sản, Luật Dân số còn tập trung vào 3 trụ cột hỗ trợ chính: tài chính và lao động, nhà ở và dịch vụ công, nâng cao chất lượng dân số. Theo quy định mới, trong trường hợp sinh con thứ hai, thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ là 7 tháng; lao động nam là 10 ngày làm việc khi vợ sinh con.

Luật cũng nêu rõ sẽ có hỗ trợ tài chính khi sinh con đối với phụ nữ dân tộc thiểu số rất ít người; hỗ trợ tài chính khi sinh con với phụ nữ dân tộc thiểu số rất ít người; phụ nữ tại các địa phương có mức sinh dưới mức sinh thay thế hoặc phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi. Theo báo cáo của Bộ Y tế, mức hỗ trợ tài chính đối với các đối tượng nói trên dự tính là 2 triệu đồng/phụ nữ. Với mức này, dự kiến tổng kinh phí ngân sách nhà nước chi trực tiếp khoảng 2.100 tỉ đồng/năm.

Ngoài các chính sách nêu trên, luật cũng quy định người sinh đủ 2 con được ưu tiên mua, thuê mua hoặc thuê nhà ở xã hội. Chế độ ưu tiên được thực hiện theo pháp luật về nhà ở. Để thực hiện chính sách ưu tiên, Luật Dân số 2025 cũng bổ sung đối tượng “người có từ 2 con đẻ trở lên” vào Điều 76 Luật Nhà ở 2023 quy định về đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội. Người sinh 2 con trở thành đối tượng thứ 13 hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội.

Có thể thấy, việc thông qua Luật Dân số đã nâng tầm công tác dân số, từ Pháp lệnh Dân số năm 2003 lên một đạo luật có hiệu lực pháp lý cao hơn, phù hợp với bối cảnh phát triển mới của đất nước. Quan trọng hơn, luật đánh dấu sự chuyển hướng căn bản trong chính sách dân số của Việt Nam, từ trọng tâm kế hoạch hóa gia đình sang tiếp cận dân số và phát triển, giải quyết đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số, thích ứng quá trình già hóa dân số, đồng thời kéo dài và phát huy hiệu quả lợi thế thời kỳ dân số vàng gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Linh Chi

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/cai-thien-muc-sinh-thap-ky-luc-de-keo-dai-thoi-ky-dan-so-vang.html