Cần có nghị định riêng về tài chính cho dự án năng lượng
Theo Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu năng lượng và tăng trưởng xanh HÀ ĐĂNG SƠN, Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đưa ra các giải pháp thu hút đầu tư tư nhân rất cụ thể và toàn diện; để triển khai hiệu quả, cần có nghị định riêng về cơ chế ưu đãi tài chính cho các dự án năng lượng.
Tạo sự yên tâm cho những người có trách nhiệm thực thi
- Ở góc độ chuyên gia, ông nhìn nhận thế nào về Nghị quyết 70-NQ/TW?
- Kế thừa và phát triển từ Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, song Nghị quyết số 70-NQ/TW có cách tiếp cận mới mang tính chất đột phá hơn và tính thực tiễn cao hơn.

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu năng lượng và tăng trưởng xanh Hà Đăng Sơn
Nghị quyết đã định hướng rất rõ: phát triển năng lượng được ưu tiên cao nhất để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng liên tục trên 10% trong giai đoạn tới, thực hiện hai mục tiêu 100 năm của đất nước; xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hóa hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng, không bù chéo giữa các nhóm khách hàng; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, nhất là khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng…
Nghị quyết cũng nêu rõ: rà soát, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế trong quy hoạch, cấp phép, huy động vốn... cho các dự án về năng lượng; có cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội để thu hút và triển khai các dự án năng lượng quan trọng, cấp bách của quốc gia; khẩn trương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án năng lượng trọng điểm, đặc biệt là các dự án nguồn điện và lưới điện truyền tải; cải cách triệt để các thủ tục hành chính, cắt giảm 30 - 50% thời gian thực hiện, chi phí tuân thủ và điều kiện kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi trong đầu tư, kinh doanh, xây dựng, vận hành các dự án năng lượng…
Đáng chú ý, lần đầu tiên một Nghị quyết về năng lượng lại đặt nặng về các giải pháp thích ứng, bảo đảm an ninh năng lượng thông qua dự trữ quốc gia, yêu cầu có các kế hoạch, kịch bản ứng phó với các tình huống về biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai… Đồng thời, yêu cầu phải ưu tiên sử dụng nguồn khí trong nước, giảm phụ thuộc khí LNG nhập khẩu - đây là định hướng rất phù hợp bởi Việt Nam có quy mô, nhu cầu không quá lớn về khí LNG nên sẽ có rủi ro về mất an toàn quản lý giá cũng như về khả năng cung ứng.
Tựu trung, những định hướng của Nghị quyết rất cụ thể và quyết liệt, đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương triển khai. Điều quan trọng nữa là, chính sự cụ thể đó sẽ tạo sự yên tâm cho những người có trách nhiệm trong công tác thực thi.
Giá điện hai thành phần sẽ giúp tối ưu hệ thống
- Đang có rất nhiều trông đợi vào việc phát triển thị trường điện theo hướng tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch; tăng cường quyền lựa chọn của khách hàng sử dụng điện trong việc tiếp cận và lựa chọn đơn vị cung cấp điện phù hợp với nhu cầu. Ý kiến của ông thế nào?
- Đây là điểm rất đáng chú ý tại Nghị quyết này; thực tế, chúng ta đã thiết kế về thị trường điện cạnh tranh từ hơn 10 năm nay, song vẫn chưa có bước tiến lớn bởi nhiều yếu tố. Thị trường không nơi nào giống nơi nào nên chúng ta không thể bê nguyên mô hình của quốc gia khác về Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam có đặc thù là phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là còn phải bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy đầu tư tư nhân, FDI…
Với nhà đầu tư tư nhân, họ quan tâm đến bài toán tài chính, về hoàn vốn, lợi nhuận, chứ không phải là trách nhiệm hay sự chia sẻ; trong khi về phía Nhà nước phải bảo đảm cân đối, hài hòa lợi ích của các bên, tránh cho giá điện tăng đột ngột sẽ tác động tới sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân nên cần có sự điều tiết, định hướng của Nhà nước.
Để có được thị trường điện mang tính cạnh tranh, minh bạch, triển khai cơ chế mua bán điện trực tiếp, một trong những công cụ quan trọng là phải áp dụng giá điện hai thành phần (tính theo công suất đăng ký và sản lượng tiêu thụ). Theo đó, khách hàng sẽ đăng ký công suất hàng tháng và trả mức tiền tương ứng cho nhà cung cấp, như cách chúng ta đang sử dụng dịch vụ viễn thông hiện nay; nếu sử dụng hết công suất sẽ phải mua thêm, hoặc lắp đặt điện mặt trời mái nhà. Khi đó khách hàng được chọn công suất lẫn nhà cung cấp, và sẽ tối ưu được hệ thống, không có chuyện giá theo bậc thang, trợ giá, bù chéo giữa các nhóm khách hàng.
Muốn làm được, yếu tố tiên quyết là phải có hạ tầng điện thông minh, với hệ thống đo đếm công suất chuẩn xác, rõ mã người mua, người bán, địa chỉ; khi đó, người ở miền Bắc có thể mua điện của công ty phía Nam; tuy nhiên, do hiện nay hạ tầng của chúng ta chưa đồng đều nên trước tiên có thể thí điểm ở những nơi thuận lợi, hạ tầng sẵn sàng, sau đó có thể thực hiện phổ cập về giá điện hai thành phần trên toàn quốc theo một lộ trình phù hợp.
- Để phát triển thị trường năng lượng, Nghị quyết cũng nêu rõ là khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, nhất là khu vực tư nhân tham gia; ông có đề xuất gì đối với công tác triển khai?
- Có thể nói, các định hướng thu hút tư nhân trong Nghị quyết số 70-NQ/TW rất cụ thể và toàn diện, bao gồm cả khuyến khích đầu tư vào xây dựng nguồn điện cũng như hệ thống lưu trữ, truyền tải, từ tháo gỡ về thủ tục, quy hoạch, nguồn vốn... Từ kinh nghiệm giá FIT thời gian qua, tôi cho rằng, mấu chốt để thu hút đầu tư tư nhân là phải có cơ chế, chính sách rõ ràng, có tầm nhìn dài hạn, tức có sự ổn định, minh bạch trong triển khai và có tính phán đoán được; nếu không bảo đảm điều này sẽ khó hấp dẫn nhà đầu tư.
Nghị quyết cũng nêu rõ: có cơ chế, chính sách ưu đãi hợp lý để phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ và hệ thống lưu trữ năng lượng. Đây chính là yếu tố về vốn. Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước cần sớm có giải pháp để tháo gỡ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân được tiếp cận các nguồn vốn xanh, vốn ưu đãi với những gói vay phù hợp. Nên có một nghị định riêng về cơ chế ưu đãi nguồn vốn cho các dự án năng lượng.
Có thể nói, sự quyết liệt trong việc chỉ đạo phát triển thị trường năng lượng từ Nghị quyết số 70-NQ/TW sẽ tạo áp lực buộc Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương không thể chần chừ, không có chỗ cho sự né tránh, đùn đẩy, tuy nhiên đây cũng chính là cơ hội để thực hiện các bước chuyển biến lớn về thể chế, chính sách. Bởi thế, các bên liên quan cũng cần sớm có kế hoạch, chương trình triển khai Nghị quyết số 70-NQ/TW, đồng thời rõ chế tài trách nhiệm để bảo đảm Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống một cách hiệu quả.
Một yếu tố quan trọng nữa là cần có cơ chế đối thoại thường xuyên với nhà đầu tư để kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn cho họ, qua đó cũng tạo sự đồng thuận trong xã hội - một trong những yếu tố tiên quyết để triển khai thành công Nghị quyết.
- Xin cảm ơn ông!