Cần đẩy mạnh ý thức về sở hữu trí tuệ trong hệ thống giáo dục
Kết quả khảo sát ở một trường tại TP.HCM cho thấy chỉ 4% sinh viên và giảng viên được hỏi 'hiểu rõ và biết cách vận dụng' kiến thức sở hữu trí tuệ; 50,7% chỉ dừng ở mức cơ bản và 37,3% 'có nghe nhưng không hiểu'.
Ngày 26.9, Ban Tuyên giáo - Dân vận Thành ủy TP.HCM phối hợp cùng Học viện Quản lý giáo dục và Trường cao đẳng Kinh tế TP.HCM tổ chức hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề: “Đẩy mạnh tuyên truyền sở hữu trí tuệ trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp tại TP.HCM: Giải pháp thực tiễn gắn với chuyển đổi số”.

ThS Lê Thị Phương Lan, Trưởng phòng Khoa giáo (Ban Tuyên giáo - Dân vận Thành ủy TP.HCM) phát biểu
Phát biểu khai mạc, ThS Lê Thị Phương Lan, Trưởng phòng Khoa giáo (Ban Tuyên giáo - Dân vận Thành ủy TP.HCM) nhấn mạnh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sở hữu trí tuệ (SHTT) có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo hộ thành quả sáng tạo, khuyến khích đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đối với lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, trang bị kiến thức SHTT cho học sinh, sinh viên không chỉ giúp họ giỏi nghề, mà còn am hiểu pháp luật, sẵn sàng khởi nghiệp và hội nhập toàn cầu.
Thực tế, những năm qua Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tuy vậy, công tác tuyên truyền và giảng dạy về SHTT trong các trường nghề vẫn còn rời rạc, thiếu khung chương trình chuẩn, tài liệu đồng bộ và đội ngũ chuyên trách. Chính vì vậy, nhu cầu đặt ra hiện nay là cần có giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ và khả thi hơn…
Theo ThS Lê Thị Phương Lan, để đạt hiệu quả, thời gian tới chúng ta cần chú trọng nâng cao nhận thức xã hội về SHTT, biến hiểu biết thành hành động cụ thể trong từng cơ sở đào tạo; đồng thời xây dựng bộ khung chương trình, học liệu thống nhất gắn với yêu cầu chuyển đổi số và đặc thù từng ngành nghề. Cần thúc đẩy cơ chế liên kết giữa nhà trường - doanh nghiệp - cơ quan quản lý nhằm bảo đảm tính bền vững của hoạt động giáo dục SHTT, kết hợp tổ chức các lớp bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giảng viên, cán bộ và cả doanh nghiệp liên quan.
Ở phần tham luận, TS Đặng Minh Sự, Hiệu trưởng Trường trung cấp Bách Khoa Toàn Cầu cho rằng tuyên truyền SHTT chỉ có thể bền vững nếu thoát khỏi cách làm phong trào, khẩu hiệu, mà cần gắn liền với chiến lược giáo dục nghề nghiệp dài hạn, đồng thời phù hợp với Quyết định 1068/QĐ-TTg ngày 22.8.2019 về Chiến lược SHTT đến năm 2030.
TS. Đặng Minh Sự đề xuất một hướng đi khả thi cho TP.HCM là xây dựng nền tảng số về SHTT, tạo chuyên mục riêng trên cổng thông tin giáo dục nghề nghiệp của TP, tích hợp học liệu điện tử, video tình huống, infographics và các ví dụ thực tế về tranh chấp quyền tác giả. Cùng với đó, việc ứng dụng AI Chatbot trong trường nghề có thể giúp sinh viên tra cứu nhanh thủ tục liên quan đến bản quyền, nhãn hiệu. Ông Sự cũng đề xuất lồng ghép modul SHTT vào từng chương trình đào tạo nghề, bảo đảm mỗi ngành đều có chuyên đề ngắn hạn phù hợp.
Trong phiên thảo luận kéo dài hơn một giờ đồng hồ, 5 báo cáo khoa học đã được trình bày, mang lại nhiều góc nhìn bổ ích. Nhóm tác giả ThS Đặng Thị Hiền - ThS Phạm Đình Luân nhấn mạnh vai trò của quyền tác giả trong đào tạo nghệ thuật, nơi sản phẩm học tập mang tính sáng tạo cao; TS Phạm Hoàng Tú Linh và ThS Nguyễn Huy Hoàng phân tích thực trạng giáo dục SHTT tại Hà Nội, chỉ ra hạn chế trong lồng ghép kiến thức và thiếu học liệu số; PGS-TS Phạm Văn Thuần - TS Nguyễn Đặng An Long so sánh mô hình giáo dục SHTT tại Việt Nam với nước ngoài, đề xuất xây dựng “hệ sinh thái SHTT cho đào tạo nghề”; báo cáo của ThS Trần Thị Thảo Hương - ThS Đinh Quốc Anh tập trung vào quản lý quyền SHTT trong nghiên cứu khoa học, đề xuất số hóa quy trình và tăng cường công cụ giám sát; PGS-TS Lê Chi Lan đưa ra giải pháp phát triển chương trình SHTT theo mô đun, tích hợp linh hoạt với đặc thù ngành nghề.
Tại hội thảo, ThS Đặng Thị Hiền (Trường cao đẳng Văn hóa nghệ thuật TP.HCM) công bố kết quả khảo sát đáng chú ý: chỉ 4% sinh viên và giảng viên được hỏi “hiểu rõ và biết cách vận dụng” kiến thức SHTT; 50,7% chỉ dừng ở mức cơ bản và 37,3% “có nghe nhưng không hiểu”. Nguyên nhân chính là các cơ sở đào tạo thiếu khung chương trình, học liệu và nhân lực triển khai. Đáng lo hơn, tới 69,3% sinh viên và giảng viên thừa nhận trường chưa từng tổ chức hoạt động nào về SHTT; hơn 82% cho biết chưa từng tham dự bất kỳ sự kiện liên quan.
Nghiên cứu của TS Phạm Hoàng Tú Linh và ThS Nguyễn Huy Hoàng cũng chỉ ra rằng ở Hà Nội 70% giảng viên và 64% sinh viên có hiểu biết về SHTT, nhưng chủ yếu từ nguồn internet hoặc truyền thông, trong khi các khóa tập huấn, bồi dưỡng đóng góp ít nhất. Điều này cho thấy “khoảng trống” rõ rệt trong công tác giáo dục và tuyên truyền SHTT tại trường học.
TS Nguyễn Đặng An Long, Phó hiệu trưởng Trường cao đẳng Kinh tế TP.HCM nhận định điểm yếu cốt lõi của hệ thống đào tạo nghề Việt Nam là thiếu một khung chương trình quốc gia về giáo dục SHTT. Hiện có nhiều mô hình thí điểm nhưng thiếu bền vững vì phụ thuộc tài trợ, chưa thể chế hóa, lại thiếu giảng viên chuyên môn và học liệu chuẩn hóa. Trong khi đó, các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản hay Singapore đã triển khai đồng bộ mạng lưới IP Campus, lồng ghép SHTT vào đào tạo STEM và thậm chí có cơ chế hỗ trợ tài chính cho học sinh đăng ký quyền sở hữu trí tuệ.
TS Nguyễn Đặng An Long đề xuất Việt Nam cần khẩn trương xây dựng khung chương trình quốc gia dựa trên kinh nghiệm quốc tế, kết hợp phát triển học liệu điện tử, giáo trình số và hệ thống LMS; thành lập mạng lưới IP Hub vùng nhằm hỗ trợ sinh viên trong bảo hộ sáng tạo. Đồng thời, cần đưa tiêu chí giáo dục SHTT vào kiểm định chất lượng đào tạo nghề, kết hợp học bổng và hỗ trợ tài chính cho sinh viên.