Cần giữ trục riêng cho hợp phần Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Sáng 5/12, tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp thứ Mười, các ĐBQH thảo luận tại hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Phát biểu thảo luận, ĐBQH Cầm Hà Chung, Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ đồng tình với chủ trương tích hợp ba lĩnh vực lớn: xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhằm tạo tính đồng bộ, tránh trùng lặp, tăng hiệu quả sử dụng ngân sách. Tuy nhiên, theo đại biểu, thực tiễn triển khai giai đoạn 2021 - 2025 cho thấy, nếu không thiết kế rõ ràng cấu trúc từng hợp phần rất dễ làm “mờ” tính đặc thù của hợp phần Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Hợp phần này là sự tiếp nối, triển khai của hơn 118 chính sách với 10 dự án thành phần ở giai đoạn trước, có đối tượng thụ hưởng, cơ chế tài chính, phương thức hỗ trợ, mục tiêu ưu tiên và cách thức tổ chức hoàn toàn khác biệt so với hai lĩnh vực còn lại.
Vì vậy, việc “gộp” mà không xác định rõ cấu trúc sẽ gây khó khăn cho phân bổ nguồn lực, xác lập trách nhiệm chủ trì, công tác kiểm tra, giám sát, đặc biệt là giải ngân vốn đầu tư và xử lý các vấn đề đặc thù của vùng. Bởi nhiều khó khăn mang tính lịch sử đã kéo dài qua nhiều thế hệ; nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số vẫn đối mặt với thách thức về đất ở, đất sản xuất, sinh kế, nhà ở, nước sạch, bảo tồn văn hóa truyền thống và bảo đảm an ninh khu vực biên giới.

Đại biểu Cầm Hà Chung phát biểu thảo luận.
Từ những phân tích trên, ĐBQH Cầm Hà Chung đề nghị mục tiêu tổng quát tại khoản a, mục 1, Điều 1 liên quan đến hợp phần này cần được diễn đạt theo hướng: “Phát triển toàn diện khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, bảo đảm tính đặc thù, có mục tiêu, nhiệm vụ, tiêu chí và cơ chế tổ chức thực hiện phù hợp; giải quyết căn cơ, toàn diện những khó khăn lịch sử và các “lõi nghèo”, “lõi khó khăn” tồn tại kéo dài tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, nhóm dân cư, nhất là vùng dân tộc thiểu số và miền núi so với vùng khác; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc thiểu số”.
Bổ sung này sẽ giúp Chương trình giữ được tính tích hợp nhưng vẫn bảo đảm sự tập trung, phù hợp đặc thù đối tượng và phù hợp với kinh nghiệm trong triển khai các chương trình mục tiêu hướng tới nhóm yếu thế thời gian qua. Đồng thời, sẽ tạo định hướng rõ ràng hơn cho cơ quan chủ trì, các địa phương và lực lượng tổ chức thực hiện Chương trình.
Về nguyên tắc phân bổ nguồn lực, bảo đảm công bằng, trọng tâm và khả thi, đại biểu cho rằng, điểm a, Khoản 4, Điều 1, Dự thảo quy định nguyên tắc “tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư cho các xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” là phù hợp. Tuy nhiên, đại biểu nhấn mạnh, nếu không quy định rõ cơ cấu phân bổ theo từng hợp phần thì quá trình triển khai có thể gặp nhiều khó khăn. Điều này đặc biệt đúng với hợp phần Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nơi phần lớn địa phương không có khả năng tự cân đối ngân sách và khó đáp ứng yêu cầu về vốn đối ứng.
Do đó, để bảo đảm tính khả thi và thống nhất trong tổ chức thực hiện, đại biểu đề nghị bổ sung vào Khoản 4, Điều 1 “Nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ thực hiện Chương trình” nội dung sau: “Cơ cấu vốn ngân sách trung ương và ngân sách địa phương được xác định theo từng hợp phần của Chương trình. Trong đó, đối với hợp phần Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, ngân sách Trung ương giữ vai trò quyết định”.
Theo đại biểu, để hợp phần Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thực sự đạt hiệu quả và giữ được tính đặc thù, cần giao Bộ Dân tộc và Tôn giáo chủ trì hợp phần này. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 2 theo hướng: “Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì chung Chương trình. Bên cạnh phân công chủ trì các hợp phần, dự thảo cần bổ sung rõ cơ chế phối hợp để bảo đảm trách nhiệm và tính đồng bộ; tránh tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu trách nhiệm.”
Đại biểu đề nghị bổ sung vào khoản 2, Điều 2 nội dung: “Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, đặc biệt là cơ quan chủ trì từng hợp phần với các cơ quan liên quan; bảo đảm chỉ đạo thống nhất, điều hành đồng bộ, không chồng chéo; phân định rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và giải ngân nguồn lực.
Theo ĐBQH Cầm Hà Chung, Điều 4, dự thảo Nghị quyết quy định trách nhiệm giám sát của Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội và Đoàn ĐBQH, MTTQ và các tổ chức thành viên. Tuy nhiên, để Chương trình thực sự minh bạch, hiệu quả, cần phát huy mạnh mẽ vai trò của MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và cộng đồng dân cư.
Vì vậy, cần bổ sung vào Điều 4 nội dung: “MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và cộng đồng dân cư không chỉ thực hiện giám sát mà còn tham gia, theo dõi quá trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và sử dụng nguồn lực của Chương trình; kịp thời phát hiện, kiến nghị xử lý bất cập, sai phạm trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Chương trình”. Quy định này vừa phù hợp Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, vừa tăng tính minh bạch, tạo sự đồng thuận và đưa người dân trở thành chủ thể giám sát - chủ thể thụ hưởng các thành quả của Chương trình.














