Cần lưu ý gì từ xu hướng điều tra phòng vệ thương mại tại Mỹ?
Có tới 17/18 mặt hàng của Việt Nam có nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại mà Bộ Công Thương vừa công bố là xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Mỹ là thị trường xuất khẩu chủ lực và lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra các nước trên thế giới. Theo thống kê của Bộ Thương mại Mỹ, trong 8 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt khoảng 73 tỷ USD và thặng dư thương mại khoảng 66 tỷ USD. Việt Nam trở thành nước thứ ba về thặng dư thương mại với Hoa Kỳ chỉ sau Trung Quốc và Mexico.
Tuy nhiên, Mỹ cũng là thị trường mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam gặp không ít rủi ro về phòng vệ thương mại. Thống kê cho thấy, đến tháng 10/2023, hơn 20% trong tổng số 235 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam là từ thị trường Mỹ. Ngoài ra, có tới 17/18 mặt hàng có nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại mà Bộ Công Thương vừa công bố là xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Các vụ việc phòng vệ thương mại ngày càng tăng và nguy cơ phòng vệ thương mại ngày càng lớn hơn - ông Đỗ Ngọc Hưng, Tham tán thương mại, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ cảnh báo. Theo đó, các doanh nghiệp nội địa của Mỹ ý thức rất rõ quyền lợi, các công cụ của mình khi hàng hóa nhập khẩu cạnh tranh khốc liệt, gây ra tổn hại, tổn thương đối với ngành sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp Mỹ cũng biết cách sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích nếu bị kiện ở Mỹ.
Ngoài Bộ Thương mại Mỹ, các cơ quan khác như Ủy ban Thương mại Quốc tế, cơ quan hải quan hay biên phòng Mỹ đều có thể điều tra các vụ việc phòng về thương mại. Các mặt hàng bị điều tra mở rộng hơn, không chỉ dừng lại ở các ngành hàng xuất khẩu chủ lực.
Thông tin về xu hướng của các vụ việc phòng vệ thương mại tại thị trường Mỹ trong thời gian tới đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, ông Đỗ Ngọc Hưng đề cập đến một số xu hướng.
Thứ nhất, các cơ quan của Mỹ tăng cường sử dụng các biện pháp chống lẩn tránh thuế để áp dụng với hàng hóa nhập khẩu, với các lý do. Đó là, thời gian điều tra nhanh và yêu cầu điều tra đơn giản hơn; mức thuế áp dụng thường cao và có thể không bị khởi kiện do WTO chưa quy định cụ thể về nội dung này. Nhóm hàng có nguy cơ bị kiện cao là các nhóm hàng đã bị Mỹ điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại trước đó với các nước khác.
Thứ hai, nếu trước đây, chủ yếu các vụ việc bắt đầu từ đơn kiện của nguyên đơn là nhà sản xuất nội địa, nhưng thời gian qua, Bộ Thương mại Mỹ đã chủ động khởi xướng một số vụ việc mà không cần đến đơn kiện của doanh nghiệp Mỹ. Các mặt hàng điều tra thường không tập trung vào các nhóm mặt hàng tiêu dùng mà là những mặt hàng có liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia.
Chẳng hạn, mặt hàng nhôm và thép. Năm 2018, Bộ Thương mại Mỹ căn cứ vào mục 232 của Đạo luật về mở rộng thương mại 1962, coi nhôm thép thuộc nhóm liên quan đến an ninh năng lượng. “Xu hướng trên một mặt giúp doanh nghiệp trong nước có thể cảnh báo trước, chuẩn bị một cách bài bản hơn, có sự đầu tư theo dõi về nguồn lực, thời gian cho các mặt hàng cảnh báo bị kiện; nhưng mặt khác gây khó khăn trong quá trình xử lý do những vụ việc này thường rất phức tạp” - ông Đỗ Ngọc Hưng cho biết thêm.
Trước thực trạng trên, để giữ vững vị thế xuất khẩu, hạn chế rủi ro, theo Tham tán thương mại Đỗ Ngọc Hưng, các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị đầy đủ các tài liệu, thông tin, hồ sơ, sổ sách, giấy tờ bởi doanh nghiệp hiểu rõ hơn ai hết về sản phẩm của mình.
Cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, Hiệp hội ngành hàng để theo dõi, cập nhật cũng như chia sẻ thông tin và chuẩn bị các bước trong quá trình ứng phó. Nếu được đưa vào danh sách có nguy cơ bị khởi kiện, doanh nghiệp cần chủ động trang bị các kiến thức pháp luật về phòng vệ thương mại.
Đặc biệt, để gia tăng khả năng sản xuất và xuất khẩu bền vững sang thị trường Mỹ, các doanh nghiệp trong nước cần đầu tư nghiên cứu, gia tăng hàm lượng công nghệ và giá trị của sản phẩm; giảm phụ thuộc cạnh tranh về giá, thay vào đó là cạnh tranh về chất lượng, công nghệ, đảm bảo việc truy xuất nguồn gốc đối với các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất sản phẩm.