Tọa đàm: 'Áp thuế GTGT phân bón: Vì một nền nông nghiệp phát triển bền vững'

Ngày 17/11/2024, Tạp chí Năng lượng Mới/PetroTimes tổ chức buổi Tọa đàm trực tuyến: 'Áp thuế GTGT phân bón: Vì một nền nông nghiệp phát triển bền vững'.

Các đại biểu khách mời tham dự Tọa đàm.

Các đại biểu khách mời tham dự Tọa đàm.

Buổi Tọa đàm có sự góp mặt của các đại biểu khách mời: Đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An - Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội; ông Nguyễn Văn Được - Ủy viên Thường trực Hội Tư vấn thuế Việt Nam; PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Chuyên gia kinh tế; ông Lê Văn Ngân, Chánh Văn phòng Hiệp hội Phân bón Việt Nam.

Tổng Biên tập Tạp chí Năng lượng Mới/PetroTimes Phạm Thuận Thiên phát biểu khai mạc Tọa đàm

Tổng Biên tập Tạp chí Năng lượng Mới/PetroTimes Phạm Thuận Thiên phát biểu khai mạc Tọa đàm

Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Nhà báo Phạm Thuận Thiên, Tổng biên tập Tạp chí Năng lượng Mới - PetroTimes cho biết, năm 2014, Quốc hội đã ban hành Luật thuế 71/2014/QH13 (gọi tắt là Luật thuế 71), có hiệu lực từ 01/01/2015.

Tại Khoản 1, Điều 3, Luật này quy định các mặt hàng phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp không phải chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT). Quy định này được kỳ vọng có thể giảm chi phí giá thành sản phẩm phân bón, giúp người nông dân tăng lợi nhuận trong quá trình canh tác nông nghiệp.

Tuy nhiên, ngay sau khi triển khai thực hiện, Luật thuế 71 đã nảy sinh nhiều bất cập, đi ngược lại so với mong muốn ban đầu. Cụ thể là khiến giá bán phân bón trong nước không những không giảm mà còn tăng lên do phải gánh phần thuế GTGT đầu vào mà doanh nghiệp không được hoàn thuế do không có thuế GTGT đầu ra; tạo ra sự cạnh tranh thiếu công bằng giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu; ngành sản xuất phân bón trong nước mất động lực phát triển, có nguy cơ đi thụt lùi; ngân sách nhà nước thất thu...

Do những bất cập nêu trên, Chính phủ đã xây dựng Dự thảo Luật Thuế GTGT sửa đổi đã được đưa ra thảo luận, dự kiến thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV này. Trong đó, phương án áp thuế GTGT 5% đối với phân bón đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều Đại biểu Quốc hội cũng như các chuyên gia, nhằm đảm bảo cạnh tranh giữa phân bón sản xuất trong nước và phân bón được nhập khẩu, vì lợi ích người nông dân, sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp nước nhà.

Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng khoản 3 Điều 15 trong Dự thảo Luật là không hợp lý, cần phải được điều chỉnh.

Nhằm làm rõ những bất hợp lý, những tác động tiêu cực của Luật thuế 71 đối với người nông dân; cùng lợi ích thiết thực của việc áp thuế GTGT phân bón 5% như Dự thảo Luật Thuế GTGT sửa đổi, Tạp chí Năng lượng Mới/PetroTimes tổ chức buổi Tọa đàm với chủ đề: “Áp thuế GTGT phân bón: Vì một nền nông nghiệp phát triển bền vững”.

Đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An - Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội chia sẻ ý kiến

Đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An - Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội chia sẻ ý kiến

Đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An: Có thể nói cuộc tọa đàm này diễn ra vào một thời điểm rất có ý nghĩa vì dự kiến ngày 26/11 tới đây Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Luật Thuế GTGT. Đây là một vấn đề nhận được sự quan tâm rất lớn của các ĐBQH, doanh nghiệp, cử tri cả nước. HIện nay, cơ bản những nội dung lớn của Luật Thuế GTGT đã được thống nhất chỉ còn một số ý kiến khác nhau.

Chúng ta cần phải nhận thức rằng, Thuế GTGT với phân bón có giá trị không chỉ dừng lại ở mặt kinh tế mà còn liên quan đến nhiều khía cạnh khác. Các ĐBQH cũng cần phải lắng nghe các ý kiến từ các chuyên gia, các đánh giá dưới góc độ khoa học để có sự thống nhất cao.

Nghị trường Quốc hội trong thời gian qua đã rất “nóng” với vấn đề này vì Luật Thuế GTGT ảnh hưởng lớn đến người dân, đặc biệt là người nông dân. Quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội trong việc xây dựng và ban hành chính sách là không để gây thiệt hại cho người dân, doanh nghiệp, đây là nguyên tắc bất di bất dịch để không ảnh hướng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động sản xuất của người nông dân.

Liên quan đến Khoản 3, Điều 15 của Dự thảo - Các trường hợp hoàn thuế: "... Cơ sở kinh doanh chỉ sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5%, trừ hoạt động thanh lý tài sản nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên sau 12 tháng liên tục hoặc 4 quý liên tiếp thì được hoàn thuế GTGT". Luật hiện hành không có điều này, quan điểm này đang nằm ở nghị định và không có từ “chỉ”.

Theo quan điểm ban soạn thảo thì việc có từ “chỉ” sẽ thu hẹp lại đối tượng được hoàn. Tuy nhiên, ý kiến của các ĐBQH rất băn khoăn như thế bù trừ cho phần hoàn của 10% và 5% rất phức tạp, dẫn đến chênh quá bị tồn đọng, ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Về ý kiến cá nhân tôi, không nên dùng từ “chỉ”, đồng thời có phương pháp hài hòa để giải quyết phương án hoàn thuế phù hợp.

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Chuyên gia kinh tế chia sẻ tại Tọa đàm

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Chuyên gia kinh tế chia sẻ tại Tọa đàm

Nhà báo Phạm Thuận Thiên: Qua các ý kiến vừa trao đổi, phân tích đều thống nhất cho rằng áp thuế 5% là hợp lý so với các phương án đưa ra đạt mục tiêu “ích nước lợi nhà”. Hiện nay chi phí phân bón dành cho nông nghiệp chiếm tỉ lệ lớn, vậy theo PGS.TS Đinh Trọng Thịnh việc áp thuế 5% được mang lại kỳ vọng như thế nào đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp?

PGS.TS Định Trọng Thịnh: Qua chuyến đi tới vùng nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long vừa qua, tôi nhận thấy người nông dân hiện nay sử dụng phân bón cho trồng lúa và cây trồng là chủ yếu. Tuy nhiên, qua tìm hiểu được biết người nông dân cho rằng hiện nay phân bón Việt Nam chưa đủ cạnh tranh đối với phân bón nước ngoài. Chính vì vậy, Luật Thuế GTGT trong đợt sửa đổi này mong muốn làm sao được chuyển hóa để nâng cao được năng suất chất lượng phân bón, vật tư thiết bị đáp ứng được nhu cầu người nông dân. Từ đó, dẫn đến chi phí giá thành giảm, đổi mới hoạt động sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ mới, ứng dụng khoa học công nghệ trông nông nghiệp sẽ đảm bảo sản xuất nông nghiệp theo quy mô lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước và nhu cầu xuất khẩu, nâng cao thu nhập đời sống người nông dân. Đặc biệt, từ đó đưa nông nghiệp trở thành nền tảng hỗ trợ nền kinh tế Việt Nam thăng hoa thời gian tới.

Ông Nguyễn Văn Được - Ủy viên Thường trực Hội Tư vấn thuế Việt Nam

Ông Nguyễn Văn Được - Ủy viên Thường trực Hội Tư vấn thuế Việt Nam

Ông Nguyễn Văn Được: Phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT sẽ gây ra nhiều bất cập. Bởi lẽ, khi thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ và phải tính vào chi phí của doanh nghiệp, làm giảm lợi nhuận, buộc họ phải cộng tiền thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ đã tính vào chi phí trong giá sản phẩm bán ra. Như vậy, người nông dân gián tiếp phải trả thuế, gây thiệt hại “kép” cho nông dân với phân bón giả, phân bón có giá thành cao, đồng thời có thể dẫn đến Nhà nước thất thu thuế.

Ngược lại, doanh nghiệp nhập khẩu phân bón lại có lợi thế không phải chịu thuế GTGT ở khâu nhập khẩu đối với bán thành phẩm của phân bón hoặc sản phẩm phân bón và cũng không phải chịu thuế GTGT đầu ra nên không bị tác động giảm lợi nhuận do tác động chính sách thuế.

Ví dụ, giá bán sản phẩm phân bón của hai doanh nghiệp (doanh nghiệp sản xuất trong nước và doanh nghiệp nhập khẩu) chưa bao gồm GTGT là 100 đồng, giá trị đầu vào là 80 đồng, dự kiến lợi nhuận ban đầu là 20 đồng. Nếu doanh nghiệp sản xuất trong nước không được khấu trừ GTGT đầu vào, chi phí phải trả thêm là 8 đồng tiền thuế GTGT không được khấu trừ, giá thành tăng, lợi nhuận giảm. Để bảo đảm mục tiêu lợi nhuận, giá bán phải cộng 8 đồng để bù đắp chi phí thuế. Do vậy, thực tế giá sản phẩm đến tay người nông dân sẽ tăng là 108 đồng khiến người nông dân phải chịu thiệt thòi trả giá cao hơn.

Với mức giá 108 đồng, doanh nghiệp sản xuất trong nước mới bảo đảm lợi nhuận mục tiêu để duy trì sản xuất, trong khi doanh nghiệp nhập khẩu chỉ cần mức giá 100 đồng. Mặt khác, nếu doanh nghiệp nhập khẩu tính giá theo cơ chế thị trường, họ cũng có thể tăng giá bán lên 108 đồng, khi đó người tiêu dùng có thể phải trả thêm 8 đồng thuế đối với các sản phẩm phân bón nhập khẩu do chính sách thuế.

Ngoài ra, do lợi thế có được từ chính sách thuế nên nhóm doanh nghiệp nhập khẩu phân bón có điều kiện cạnh tranh về giá, chưa nói đến chất lượng và hậu mãi. Từ đó có thể gây khó khăn cho sản xuất trong nước, thậm chí có thể tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng dẫn đến độc quyền trong dài hạn khi các doanh nghiệp sản xuất trong nước kiệt quệ, thua lỗ, thậm chí phá sản…

Ông Lê Văn Ngân, Chánh Văn phòng Hiệp hội Phân bón Việt Nam chia sẻ tại Tọa đàm

Ông Lê Văn Ngân, Chánh Văn phòng Hiệp hội Phân bón Việt Nam chia sẻ tại Tọa đàm

Ông Lê Văn Ngân: Hiệp hội Phân bón Việt Nam thành lập năm 1992, đến nay đã hơn 30 năm. Qua quá trình phát triển, chúng tôi thường xuyên đồng hành cùng các doanh nghiệp phân bón. Hiện nay, Hiệp hội Phân bón Việt Nam có hơn 100 thành viên, lực lượng sản xuất chiếm hơn 70% thị phần phân bón trên thị trường. Trong 10 năm gần đây, kể từ khi Luật Thuế GTGT có hiệu lực năm 2014, việc đầu tư mới cho các dây chuyền sản xuất và ứng dụng công nghệ của các doanh nghiệp phân bón bị chậm lại. Hiện nay, một số nhà máy phân bón lớn là thành viên của Hiệp hội thì dây chuyền sản xuất vẫn rất lạc hậu. Để giúp các doanh nghiệp phân bón trong nước cải thiện dây chuyền sản xuất, quy trình công nghệ, cũng như quá trình nghiên cứu, cải thiện sản phẩm, cần có sự điều chỉnh về thuế GTGT theo hướng của các đại biểu đã phân tích là đưa thuế GTGT từ diện không chịu thuế về diện chịu thuế GTGT 5%, khi đó doanh nghiệp được khấu trừ đầu vào, doanh nghiệp sẽ có động lực đầu tư vào dây chuyền sản suất mới, hiện đại.

Hiện nay, trên thế giới, các đơn vị sản xuất phân bón ứng dụng khoa học công nghệ rất hiện đại, giúp tăng năng xuất sản xuất, giảm chi phí giá thành sản phẩm.

Chính vì vậy, khi áp dụng quy định thuế GTGT 5% chắc chắn doanh nghiệp sẽ đầu tư vào công nghệ, từ đó giúp Việt Nam có thêm các sản phẩm phân bón thế hệ mới, công nghệ cao, thân thiện với môi trường, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm phần lớn. Khi đó, chúng ta sẽ có những cải tiến về năng suất, chất lượng nông sản, sản phẩm của Việt Nam đi ra thế giới sẽ dễ dàng hơn. Vì vậy, tôi cho rằng việc áp thuế GTGT 5% sẽ giúp doanh nghiệp có động lực đổi mới, để phân bón Việt Nam có thể cạnh tranh sòng phẳng với các doanh nghiệp phân bón thế giới và doanh nghiệp nhập khẩu phân bón.

PTS.TS Đinh Trọng Thịnh chia sẻ

PTS.TS Đinh Trọng Thịnh chia sẻ

Nhà báo Phạm Thuận Thiên: PGS.TS Đinh Trọng Thịnh có thể chia sẻ thông tin các quốc gia lân cận - các quốc gia có sự cạnh tranh về mặt hàng phân bón như Việt Nam đánh thuế phân bón như thế nào?

PGS.TS Định Trọng Thịnh: Hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nga đều có ưu tiên cho việc sản xuất vật tư, thiết bị nông nghiệp, đặc biệt là phân bón. Khi nói đến các ưu tiên về thuế đầu ra/vào, họ đều có thuế suất ưu đãi với thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT với vật tư nông nghiệp và phân bón.

Tại Trung Quốc, đây là quốc gia nhập rất nhiều nguyên liệu đầu vào để sản xuất, thuế nhập khẩu được giảm 50% hoặc bằng 0, thuế VAT cũng áp mức thấp (11%). Khi các doanh nghiệp Trung Quốc xuất khẩu đều được nhà nước hỗ trợ lưu kho bãi, vận chuyển tại cảng… được nhà nước hỗ trợ, được hoàn thuế đã đóng trong nước. Do vậy, phân bón Trung Quốc bán sang Việt Nam được lợi nhuận rất lớn.

Tại Nga - cường quốc cung cấp nguyên liệu đầu vào và cường quốc sản xuất phân bón, thuế cho các lĩnh vực sản xuất phân bón tại Nga cũng được ưu đãi so với các mặt hàng khác.

Tại Mỹ, chính sách thuế cũng rất ưu ái về nông nghiệp.

Tôi cho rằng, nếu Việt Nam muốn có nền công nghiệp phục vụ nông nghiệp phát triển thì việc ưu đãi thuế rất quan trọng. Về cơ bản, sản xuất phân bón nói riêng, vật tư nông nghiệp nói chung tại các quốc gia hầu hết đều được ưu đãi.

Ông Nguyễn Văn Được

Ông Nguyễn Văn Được

Nguyễn Văn Được: Liên quan đến nội dung sửa đổi quy định về hoàn thuế GTGT tại dự án sửa đổi Luật Thuế GTGT được nêu trong Tờ trình của Bộ Tài chính gửi đến Chính phủ. Theo đó, tại Khoản 3, Điều 15 của Dự thảo - Các trường hợp hoàn thuế: “... Cơ sở kinh doanh chỉ sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế suất thuế giá trị gia tăng 5% nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết từ ba trăm triệu đồng trở lên sau 12 tháng hoặc 04 quý thì được hoàn thuế giá trị gia tăng”.

Với quy định này, nếu doanh nghiệp chỉ có 01 loại thuế suất thuế GTGT là 5% thì mới được hoàn thuế, còn những doanh nghiệp có từ 02 loại thuế suất thuế GTGT trở lên thì không được hoàn thuế. Điều này là không công bằng đối với các doanh nghiệp có từ 02 loại thuế suất thuế GTGT trở lên.

Trong thực tế, doanh nghiệp được tự do kinh doanh nên đa phần doanh nghiệp kinh doanh đa ngành nghề, rất ít doanh nghiệp chỉ sản xuất một lĩnh vực chịu thuế GTGT 5%. Do đó, sửa luật thuế GTGT cần đảm bảo công bằng đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5%...

Do đó, thuật ngữ “chỉ” sẽ làm giới hạn đối tượng được hoàn thuế và không đảm bảo công bằng đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5%...

Quy định về cách tính số thuế hoàn thuế và khống chế mức thuế được hoàn nêu trên tương tự đối với trường hợp người nộp thuế có hoạt động xuất khẩu và hoạt động kinh doanh nội địa đã được áp dụng ổn định nhiều năm qua.

Tôi đề nghị bỏ từ “chỉ” để cho phép hoàn thuế đối với đối tượng sản xuất kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5% cho đúng bản chất nhưng phải “bù trừ với các hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế khác”, đồng thời phải thực hiện “phân bổ” số thuế GTGT theo tỷ lệ chịu thuế 5% so với tổng hàng hóa dịch vụ của người nộp thuế.

Nếu bỏ từ “chỉ” thì tất cả các doanh nghiệp có một hay nhiều loại thuế suất thuế GTGT trở lên đều được đối xử bình đẳng. Điều này giúp cho doanh nghiệp có điều kiện và động lực để liên tục đầu tư phát triển, đổi mới, đa dạng sản phẩm; dành thêm nguồn lực đem lại lợi ích cho nền kinh tế.

Ví dụ, doanh nghiệp A là nhà sản xuất phân bón và kinh doanh hóa chất, nếu hàng hóa phân bón thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 5% và hóa chất chịu thuế suất 10% thì doanh nghiệp A sẽ không được hoàn thuế. Trong khi đó, doanh nghiệp B chỉ sản xuất phân bón, không kinh doanh ngành nghề khác thì lại được hoàn thuế. Như vậy, sẽ không công bằng đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề.

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: Tôi đồng ý với ý kiến của chuyên gia Được. Nếu áp thuế 10% hoặc 0% thì người nông dân sẽ không được lợi gì, mà còn bị thiệt thòi. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng không thu được thuế từ sản xuất trong nước lại càng không thu được thuế từ doanh nghiệp nước ngoài.

Do đó, đánh thuế 0% là không được mà 10% thì quá cao. Theo tính toán của chúng tôi, trong giai đoạn 2013-2014, qua khảo sát qua 4 doanh nghiệp phân bón lớn, giá đầu vào phân bón nhập vào là khoảng 3-4%. Nên chúng tôi đề xuất là áp thuế 5% vào phân bón, vì từ đó có cơ sở đủ để khấu trừ phần chiết khấu thuế đầu vào cũng không làm tăng giá trị phân bón quá nhiều.

Với việc áp thuế 5% và tính toán của 4 doanh nghiệp lớn, thì doanh nghiệp nhỏ có thể trừ chi phí đầu vào. Cho nên với mức 5%, theo chúng tôi có thể đáp ứng được yêu cầu của các bên.

Tuy nhiên, lại có một vấn đề khi áp thuế GTGT 5% liệu có làm tăng giá phân bón và làm tăng thì có đáng kể hay không. Theo tôi thì doanh nghiệp kinh doanh đều mong muốn thu lợi nhuận cao, mức tối đa. Quan trọng là việc kiểm soát giá của các cơ quan quản lý nhà nước phải tăng cường kiểm soát giá đầu ra, đầu vào cũng như chịu trách nghiệm kiểm tra giám sát thị trường; giữ ổn định về giá sau khi thuế được áp dụng.

Khi áp thuế, có thắc mắc doanh nghiệp nước ngoài sẽ cộng 5% vào thuế. Tuy nhiên, theo tôi, họ không thể cộng được vì bản thân doanh nghiệp nước ngoài không tăng giá phân bón trong nước. Họ sẽ phải lấy mức giá sàn của phân bón trong nước để định giá từ đó họ sẽ giảm lợi nhuận lớn thu được vào được so với trước đây.

Khi đã có chiết trừ đầu vào, giá thành thấp đi nhưng lợi nhuận vẫn thu về, sẽ có điều kiện đổi mới máy móc, thiết bị công nghiệp, nghiên cứu nâng cao năng suất, hạ giá thành sản xuất, đáp ứng nhu cầu sản xuất bền vững; khuyến khích nông dân kết hợp sử dụng phân bón hữu cơ, vô cơ, tiết kiệm chi phí; đẩy mạnh xanh hóa nông nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp và người nông dân đều được lợi.

Nông dân Trần Văn Khánh

Nông dân Trần Văn Khánh

Tham gia tọa đàm, nông dân Trần Văn Khánh chia sẻ: Ở góc độ của người nông dân tôi mong muốn việc áp thuế GTGT là cơ sở, điều kiện cho doanh nghiệp phân bón giảm giá thành sản phẩm, tối ưu chi phí, tái tạo công nghệ; qua đó góp phần đảm bảo sản xuất nông nghiệp và đặc biệt là phát triển sản xuất “xanh”, “sạch”, tăng cường cạnh tranh quốc tế.

Nhà báo Phạm Thuận Thiên phát biểu k

Nhà báo Phạm Thuận Thiên phát biểu k

Phát biểu kết thúc tọa đàm, Nhà báo Phạm Thuận Thiên cảm ơn các chuyên gia, các diễn giả, những người đã không ngừng nghiên cứu và đóng góp những kiến thức quý báu, những quan điểm sâu sắc trong lĩnh vực của mình. Chính sự hiểu biết sâu rộng đó đã góp phần giúp cho mọi người có thể nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau và khách quan nhất.

Ông Phạm Thuận Thiên cũng gửi lời cảm ơn tới các anh chị em đồng nghiệp các cơ quan báo chí đã dành thời gian tham dự và thông tin về Tọa đàm; và hy vọng rằng những trao đổi, chia sẻ trong buổi tọa đàm hôm nay sẽ mang lại những kiến thức, giá trị thiết thực cho cộng đồng.

Buổi tọa đàm thành công tốt đẹp

Buổi tọa đàm thành công tốt đẹp

Một số hình ảnh tại Tọa đàm:

Toàn cảnh Tọa đàm

Toàn cảnh Tọa đàm

Đại biểu, diễn giả trao đổi trước thềm Tọa đàm

Đại biểu, diễn giả trao đổi trước thềm Tọa đàm

Các đại biểu, nhà báo tham dự Tọa đàm

Các đại biểu, nhà báo tham dự Tọa đàm

Nhóm phóng viên

Nguồn PetroTimes: https://petrovietnam.petrotimes.vn/live-toa-dam-ap-thue-gtgt-phan-bon-vi-mot-nen-nong-nghiep-phat-trien-ben-vung-720696.html