Cần siết chặt đào tạo ngành Điều dưỡng để đảm bảo chất lượng đầu ra
Trước thực trạng nhiều cơ sở mở ngành Điều dưỡng, việc siết phạm vi đào tạo được đánh giá là giải pháp cần thiết để đảm bảo chất lượng đầu ra.
Trước những yêu cầu ngày càng cao về chuyên môn và kỹ năng thực hành của lực lượng điều dưỡng, nhiều ý kiến cho rằng cần siết chặt phạm vi đào tạo nhằm bảo đảm chất lượng đầu ra, tránh tình trạng đào tạo chạy theo số lượng.
Siết đào tạo để bảo đảm an toàn người bệnh và chuẩn hóa nguồn nhân lực
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nông Phương Mai – Trưởng khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Y-Dược, Đại học Thái Nguyên cho biết: Với đặc thù của lĩnh vực y tế liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người, việc siết chặt phạm vi đào tạo đối với các ngành thuộc khối sức khỏe là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, kịp thời và cần thiết. Nếu thiếu sự kiểm soát, rất dễ dẫn đến tình trạng đào tạo tràn lan, không bảo đảm chuẩn mực, tạo ra nguồn nhân lực kém chất lượng và gây hệ lụy lớn cho toàn bộ hệ thống y tế.
Theo cô Mai, điều dưỡng không chỉ là “nghề chăm sóc người bệnh” với những kỹ năng đơn thuần như quan niệm trước đây, mà là một nghề có tính chuyên môn kỹ thuật cao, đòi hỏi tổng hòa kiến thức y học, kỹ năng thực hành, giao tiếp – ứng xử, tư duy lâm sàng…
Trong bối cảnh nhu cầu nhân lực ngành Điều dưỡng ngày một gia tăng, dẫn tới việc nhiều cơ sở giáo dục mở ngành để đáp ứng nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, không phải cơ sở nào cũng bảo đảm đầy đủ điều kiện về thực hành, đội ngũ giảng viên và hệ thống bệnh viện thực tập, khiến chất lượng đào tạo giữa các trường thiếu sự đồng đều.
Từ thực tế đó, cô Mai cho rằng việc siết chặt phạm vi đào tạo ngành Điều dưỡng là vô cùng cần thiết. Bởi nếu không kiểm soát, chất lượng nhân lực y tế sẽ bị ảnh hưởng, uy tín của ngành suy giảm và quá trình hội nhập quốc tế sẽ gặp khó khăn.
“Siết không phải để hạn chế sự phát triển, mà ngược lại là điều kiện tiên quyết để ngành Điều dưỡng phát triển bền vững, chuyên nghiệp, đáp ứng chuẩn khu vực và quốc tế”, cô Mai khẳng định.
Trong khi đó, theo quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Anh - Trưởng khoa Điều dưỡng - Hộ sinh, Trường Đại học Y Hà Nội, trong bối cảnh yêu cầu về chất lượng chăm sóc ngày càng cao khiến vai trò của điều dưỡng càng trở nên thiết yếu. Đây cũng là nhóm nhân viên y tế có tần suất tiếp xúc gần gũi và liên tục với người bệnh, đồng thời phối hợp trực tiếp với bác sĩ trong quá trình điều trị.
Theo Thông tư 31/2021/TT-BYT quy định về hoạt động điều dưỡng trong bệnh viện do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành, chức năng của điều dưỡng vừa mang tính độc lập, vừa mang tính phối hợp. Điều này đòi hỏi các điều dưỡng viên phải được đào tạo bài bản để chủ động đưa ra chẩn đoán điều dưỡng, xác định vấn đề của người bệnh, biết khi nào cần can thiệp và khi nào cần phối hợp theo y lệnh của bác sĩ.
Đồng thời, họ cũng cần đủ năng lực để đánh giá việc thực hiện y lệnh có bảo đảm tiêu chuẩn an toàn và hiệu quả cho người bệnh hay không.
Với tính chất công việc đặc thù như vậy, theo Tiến sĩ Lan Anh, việc đào tạo điều dưỡng phải được đặt ở mức độ nghiêm ngặt. Cô cho rằng nhu cầu nhân lực điều dưỡng hiện nay rất lớn, nên việc cho phép các cơ sở giáo dục mở ngành là cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu xã hội.
Tuy nhiên, mở nhiều không đồng nghĩa với mở ồ ạt. Việc siết chặt phạm vi đào tạo, xác định rõ những cơ sở đủ điều kiện được đào tạo là vô cùng quan trọng.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Anh - Trưởng khoa Điều dưỡng - Hộ sinh, Trường Đại học Y Hà Nội. Ảnh: website nhà trường.
Trên thực tế, đào tạo ngành Điều dưỡng đòi hỏi phải đáp ứng đồng thời các tiêu chuẩn về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và chương trình đào tạo. Trong đó, yêu cầu về nhân lực là yếu tố đặc biệt quan trọng.
Trưởng khoa Điều dưỡng - Hộ sinh, Trường Đại học Y Hà Nội cho biết: Hiện nay, dù nhiều cơ sở có đội ngũ giảng viên trình độ học thuật cao, nhưng với ngành Điều dưỡng, kinh nghiệm chuyên môn và trải nghiệm lâm sàng mới là yếu tố quyết định. Chỉ những giảng viên từng làm việc trong bệnh viện, có nền tảng thực hành vững, mới có thể truyền đạt kỹ năng, quy trình và tư duy lâm sàng một cách thực chất cho sinh viên.
Về cơ sở vật chất, các trường muốn đào tạo ngành Điều dưỡng phải có đủ cơ sở thực hành – lâm sàng để sinh viên rèn luyện kỹ năng. Theo Tiến sĩ Lan Anh, bên cạnh thực hành tại bệnh viện, giai đoạn tiền lâm sàng giữ vai trò không thể thay thế. Đây là nơi người học được làm quen với tình huống thực tế qua mô phỏng, mô hình bệnh nhân, thiết bị nghiệp vụ và công nghệ thực tế ảo.
Do đó, các cơ sở đào tạo buộc phải đầu tư hệ thống phòng thực hành hiện đại, giúp sinh viên rèn luyện giao tiếp, ứng xử, xử lý tình huống và đưa ra quyết định chuyên môn sát với thực tiễn.
“Để bảo đảm chất lượng, các cơ sở đào tạo nếu muốn mở ngành Điều dưỡng cần chứng minh năng lực đảm bảo có đủ cơ sở thực hành - lâm sàng đạt chuẩn. Đây là điều kiện tiên quyết để bảo đảm chất lượng đào tạo, tránh việc sinh viên thiếu nơi thực tập hoặc phải thực hành tại những môi trường không đáp ứng yêu cầu”, Tiến sĩ Lan Anh nhấn mạnh.

Hệ thống phòng thực hành là một trong những điều kiện cần có đối với cơ sở đào tạo ngành Điều dưỡng. Ảnh: NVCC
Trường chuyên ngành có ưu thế rõ rệt nhờ giảng viên và bệnh viện thực hành
Đánh giá về nhu cầu nhân lực ngành Điều dưỡng, Tiến sĩ Vũ Văn Đẩu - Trưởng khoa Điều dưỡng Hộ sinh, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định cho biết: Việt Nam vẫn đang thiếu hụt điều dưỡng trầm trọng khi tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ chỉ đạt 1,95 và tỷ lệ điều dưỡng trên vạn dân mới ở mức 16,5, thấp hơn nhiều so với mục tiêu mà Nghị quyết 20-NQ/TW đặt ra (25 điều dưỡng/vạn dân vào năm 2025 và 33 vào năm 2030). [1]
Tuy nhiên, thầy Đẩu cũng nhấn mạnh rằng nhu cầu cao không có nghĩa là có thể mở ngành đào tạo một cách ồ ạt. Hiện nay, cả nước đã có tới 182 cơ sở đào tạo điều dưỡng từ trung cấp đến đại học, mỗi năm cung cấp gần 20.000 cử nhân, cao đẳng, trung cấp điều dưỡng và có khoảng 55.000 sinh viên đang theo học. Đây là con số vượt xa khả năng đáp ứng về thực hành - thực tập của hệ thống y tế.
Theo Tiến sĩ Đẩu, y tế nói chung và điều dưỡng nói riêng là lĩnh vực đặc thù, đòi hỏi năng lực chuyên môn chặt chẽ, kỹ năng lâm sàng thuần thục, đạo đức nghề nghiệp và đặc biệt là khả năng đảm bảo an toàn cho người bệnh. Vì vậy, việc siết phạm vi đào tạo khối ngành sức khỏe là hoàn toàn phù hợp và cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Trên thực tế, việc đào tạo điều dưỡng phải đáp ứng hàng loạt tiêu chuẩn khắt khe, bao gồm chương trình đào tạo theo Khung năng lực điều dưỡng Việt Nam phù hợp chuẩn ASEAN và tiệm cận quốc tế. Đội ngũ giảng viên đạt chuẩn về trình độ và kinh nghiệm thực hành, hệ thống phòng kỹ năng, mô phỏng lâm sàng hoàn chỉnh, cũng như mạng lưới bệnh viện thực hành đủ quy mô và chuyên môn theo quy định Bộ Y tế.
Theo đó, các trường có truyền thống đào tạo khối sức khỏe sẽ có lợi thế rõ rệt khi sở hữu đội ngũ giảng viên mạnh, am hiểu thực tế, bệnh viện thực hành trực thuộc hoặc liên kết chặt chẽ, văn hóa đào tạo dựa trên chuẩn năng lực đã ổn định.
Trong khi đó, nhiều trường không chuyên sâu gặp hạn chế lớn về giảng viên có nền tảng lâm sàng, cơ sở thực hành – bệnh viện liên kết còn thiếu, hệ thống mô phỏng chưa đầy đủ và thiếu kinh nghiệm quản trị đào tạo đặc thù ngành sức khỏe.

Tiến sĩ Vũ Văn Đẩu - Trưởng khoa Điều dưỡng Hộ sinh, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định. Ảnh: NVCC.
Trong bối cảnh ngành Điều dưỡng được mở rộng đào tạo tại nhiều cơ sở nhưng điều kiện còn thiếu đồng đều, thầy Đẩu cho rằng việc ban hành bộ tiêu chí chặt chẽ, đặc biệt ưu tiên những đơn vị có nền tảng đào tạo y tế, là giải pháp cần thiết để chuẩn hóa chất lượng nhân lực. Cách làm này không chỉ bảo đảm sinh viên được học tập trong môi trường đạt chuẩn ngành sức khỏe, mà còn buộc các cơ sở phải đáp ứng đủ điều kiện trước khi tuyển sinh, qua đó kiểm soát chất lượng đầu ra và hạn chế tình trạng “thừa số lượng, thiếu chất lượng”.
Ở góc độ đào tạo thực hành, các trường y – dược chuyên ngành có ưu thế vượt trội nhờ hệ thống bệnh viện thực hành, phòng lab hiện đại và quy trình đảm bảo chất lượng nghiêm ngặt. Nhờ đó, sinh viên Điều dưỡng có nhiều cơ hội tham gia thực hành lâm sàng, tích lũy kỹ năng thực tế trước khi bước vào môi trường làm việc.
“Là trường đại học chuyên ngành duy nhất tại Việt Nam đào tạo điều dưỡng ở đầy đủ các bậc học, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định sở hữu hệ sinh thái đào tạo hoàn chỉnh, tiệm cận chuẩn khu vực. Theo đó, nhà trường sở hữu đội ngũ giảng viên 100% có kinh nghiệm lâm sàng, nhiều người được đào tạo tại các nước có nền điều dưỡng phát triển. Hệ thống thực hành – mô phỏng hiện đại được đầu tư liên tục hơn 20 năm, cùng mạng lưới bệnh viện thực hành rộng khắp từ tuyến tỉnh đến tuyến trung ương.
Nhờ đó, sinh viên của trường đáp ứng tốt chuẩn năng lực điều dưỡng, được đánh giá cao khi làm việc trong và ngoài nước, với tỷ lệ có việc làm luôn rất cao”, Tiến sĩ Vũ Văn Đẩu thông tin.

Các trường chuyên ngành có ưu thế vượt trội nhờ hệ thống bệnh viện thực hành, phòng lab hiện đại và quy trình đảm bảo chất lượng nghiêm ngặt. Ảnh: NVCC.
Còn theo Tiến sĩ Nông Phương Mai, thực trạng nhiều trường ồ ạt mở ngành Điều dưỡng nhưng thiếu đồng bộ về cơ sở vật chất và điều kiện đào tạo đang đặt ra yêu cầu phải rà soát và giới hạn phạm vi đào tạo. Việc tập trung đào tạo ngành này tại các trường y sẽ giúp nâng chất lượng một cách căn cơ, bắt đầu từ việc chuẩn hóa chương trình và phương pháp giảng dạy theo đúng chuẩn năng lực quốc gia và Chuẩn năng lực Điều dưỡng Việt Nam, đồng thời tiệm cận chuẩn khu vực và quốc tế.
Trên thực tế, các trường y có lợi thế lớn về đội ngũ giảng viên và môi trường đào tạo. Đội ngũ giảng viên tại đây gồm bác sĩ, điều dưỡng có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, giàu kinh nghiệm lâm sàng, cùng với lực lượng giảng viên thỉnh giảng từ các bệnh viện – những người trực tiếp chăm sóc người bệnh, đảm bảo việc hướng dẫn sinh viên luôn chuẩn mực, chính xác và cập nhật.
Chưa kể, đào tạo nhân lực khối sức khỏe nói chung và điều dưỡng nói riêng không thể tách rời thực hành lâm sàng, trong khi các trường y có sẵn lợi thế về bệnh viện thực hành và hệ thống phòng lab hiện đại. Nhờ đó sinh viên được tiếp cận ca bệnh thật, được kiến tập, thực tập và “cầm tay chỉ việc” trong môi trường lâm sàng để hoàn thiện kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cũng như thái độ và đạo đức nghề nghiệp.

Trường Đại học Y – Dược, Đại học Thái Nguyên đầu tư đồng bộ giảng đường, phòng thí nghiệm và hệ thống phòng thực hành kỹ năng hiện đại cho ngành Điều dưỡng. Ảnh: NVCC.
Tại Trường Đại học Y – Dược, Đại học Thái Nguyên, ngành Điều dưỡng hiện đang được đầu tư mạnh mẽ về cả đội ngũ và cơ sở vật chất. Theo Tiến sĩ Nông Phương Mai, gần 70% giảng viên của Khoa Điều dưỡng đã được đào tạo sau đại học ở nước ngoài. Đội ngũ giảng viên lâm sàng đều giàu kinh nghiệm, trực tiếp tham gia chăm sóc người bệnh tại bệnh viện trường và các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến Trung ương. Đồng thời được hỗ trợ bởi các điều dưỡng trưởng, điều dưỡng chuyên khoa tham gia giảng dạy.
Cơ sở vật chất của trường được đầu tư đồng bộ với giảng đường, phòng thí nghiệm và hệ thống phòng thực hành kỹ năng hiện đại. Mạng lưới bệnh viện thực hành phong phú như Bệnh viện trường Đại học Y Dược, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên hay Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí, giúp sinh viên được rèn luyện trong môi trường lâm sàng thực tế và chuyên nghiệp.
Đồng thời, chương trình đào tạo Cử nhân Điều dưỡng cũng là một trong sáu chương trình của trường đạt chuẩn kiểm định quốc tế AUN-QA. Được thiết kế theo chuẩn năng lực Điều dưỡng Việt Nam, tiệm cận chuẩn khu vực, bảo đảm sự thống nhất giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy và đánh giá.
“Nhờ vậy, sinh viên ngành Điều dưỡng của nhà trường sau khi tốt nghiệp đều có kiến thức vững vàng, kỹ năng tay nghề tốt, giàu y đức và được các cơ sở y tế trong và ngoài nước đánh giá cao. Nhiều cựu sinh viên của trường đã thi đỗ chứng chỉ hành nghề Điều dưỡng quốc gia của Nhật Bản ngay từ lần đầu. Tỷ lệ làm việc đúng chuyên môn luôn rất cao, trong đó nhiều người đang giữ vị trí điều dưỡng trưởng khoa hoặc lãnh đạo phòng Điều dưỡng”, cô Mai thông tin.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://moh.gov.vn/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo/-/asset_publisher/TW6LTp1ZtwaN/content/thu-truong-tran-van-thuan-oi-ngu-ieu-duong-luon-tien-phong-tren-tuyen-au-chong-dich-covid-19













