Cần tạo cơ chế cho nhóm doanh nghiệp giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế

Trao đổi với PetroTimes, chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, để phù hợp với thực tiễn, cần có cơ chế đặc thù linh hoạt cho nhóm doanh nghiệp giữ vai trò then chốt, phục vụ mục tiêu chiến lược quốc gia, đảm bảo không làm triệt tiêu động lực đầu tư và khả năng phản ứng nhanh của các doanh nghiệp này trong môi trường cạnh tranh và biến động cao.

PV: Trong dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, việc “cởi trói” cho DNNN thông qua trao quyền tự chủ có tác động gì đến sự phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế, thưa ông?

PGS.TS Ngô Trí Long: Việc trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là bước tiến cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước và khả năng cạnh tranh của khối doanh nghiệp này trong nền kinh tế thị trường. Nếu trước đây, DNNN vận hành trong một khung quản trị chồng chéo, chịu sự can thiệp hành chính quá mức, thì nay dự thảo Luật đã tiếp cận theo hướng phân cấp, phân quyền rõ ràng, giao quyền nhưng đi kèm cơ chế kiểm soát minh bạch.

Theo tôi, việc trao quyền có tác động tích cực có thể thấy ở ba khía cạnh:

Một là, nâng cao năng lực vận hành theo tín hiệu thị trường. Khi được trao quyền quyết định trong đầu tư, quản lý nhân sự và sử dụng vốn, DNNN có thể phản ứng nhanh hơn với biến động kinh tế, khai thác tốt hơn cơ hội kinh doanh. Ví dụ, trong giai đoạn 2021-2023, nhiều doanh nghiệp có cơ chế tự chủ như Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) hay Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) đã đạt mức lợi nhuận vượt kế hoạch trên 15-20% nhờ quyết định linh hoạt về đầu tư và thị trường.

Hai là, khuyến khích đổi mới sáng tạo và mở rộng đầu tư dài hạn. Việc giảm bớt sự ràng buộc từ cơ quan chủ quản giúp doanh nghiệp mạnh dạn triển khai các chiến lược trung và dài hạn, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ, năng lượng tái tạo, logistics - những ngành Nhà nước cần dẫn dắt phát triển.

Ba là, tác động lan tỏa đến toàn nền kinh tế. DNNN hiện đang quản lý lượng tài sản trên 3,8 triệu tỷ đồng và giữ vai trò trụ cột ở nhiều ngành hạ tầng, năng lượng, tài chính. Khi khu vực này hoạt động hiệu quả hơn, không chỉ tạo sức lan tỏa về tăng trưởng mà còn giúp giảm áp lực lên ngân sách nhờ gia tăng nộp thuế, cổ tức và thoái vốn có lãi.

Tuy nhiên, để “cởi trói” thực sự phát huy hiệu quả, cần đồng thời siết chặt cơ chế hậu kiểm, công khai hóa thông tin tài chính và chuẩn hóa đánh giá hiệu quả đầu tư - điều mà dự thảo Luật lần này đã đưa ra như một nguyên tắc nền tảng.

PV: Trong dự thảo Luật, vấn đề về phạm vi đầu tư và thẩm quyền quyết định đầu tư vốn Nhà nước còn gây nhiều tranh cãi. Ông nhận định thế nào về vấn đề này?

PGS.TS Ngô Trí Long: Dưới góc độ chuyên gia kinh tế, tôi cho rằng việc xác định phạm vi đầu tư và thẩm quyền quyết định đầu tư vốn Nhà nước là một trong những điểm mấu chốt quyết định hiệu quả của cả hệ thống quản lý vốn công tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình xây dựng dự thảo Luật.

Về phạm vi đầu tư vốn Nhà nước, cần rõ mục tiêu, không dàn trải. Nhà nước cần tập trung đầu tư vào các lĩnh vực thiết yếu, có tính chất dẫn dắt hoặc đảm bảo an ninh - quốc phòng, an sinh xã hội như năng lượng, hạ tầng chiến lược, viễn thông, tài chính công... Mặt khác, cần loại bỏ tình trạng đầu tư tràn lan vào những ngành nghề mà khu vực tư nhân có thể đảm đương hiệu quả hơn.

Do đó, phạm vi đầu tư cần được luật hóa theo hướng tập trung, chọn lọc, có trọng tâm, gắn với chiến lược phát triển ngành và kế hoạch đầu tư công trung hạn.

Về thẩm quyền quyết định đầu tư cần phân cấp rõ ràng, tránh chồng lấn. Hiện nay, thẩm quyền phê duyệt đầu tư vẫn còn chồng chéo giữa các cơ quan như: Bộ quản lý ngành, cơ quan đại diện chủ sở hữu, và chính doanh nghiệp. Điều này gây ra tình trạng quy trình kéo dài, rủi ro pháp lý và thiếu trách nhiệm giải trình.

Dự thảo mới đã bước đầu đưa ra cơ chế phân quyền theo cấp vốn và lĩnh vực đầu tư, song vẫn cần làm rõ những vấn đề như: Cơ quan nào chịu trách nhiệm phê duyệt danh mục đầu tư chiến lược? Doanh nghiệp có quyền chủ động đầu tư trong phạm vi nào, với mức trần vốn bao nhiêu? Ai chịu trách nhiệm cuối cùng nếu đầu tư kém hiệu quả?

Thực tiễn quốc tế cho thấy, các mô hình quản lý vốn Nhà nước hiệu quả (như Temasek - Singapore) đều áp dụng nguyên tắc trao quyền đi đôi với kiểm soát hiệu quả, gắn trách nhiệm cá nhân rõ ràng cho từng cấp quyết định.

PV: Theo ông, có nên trao quyền cho tập đoàn (doanh nghiệp F1) quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp F2?

PGS.TS Ngô Trí Long: Doanh nghiệp F1 nên được quyền chủ động trong hoạt động đầu tư và quản trị doanh nghiệp F2 trong khuôn khổ chiến lược đã được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt, thay vì can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này giúp phân cấp thực chất, nâng cao tính tự chủ, đồng thời giữ được cơ chế kiểm soát và giám sát cần thiết đối với dòng vốn công.

Việc này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, khi công ty mẹ có vai trò hoạch định chiến lược, phân bổ vốn và kiểm soát tài chính, còn công ty con được trao quyền vận hành linh hoạt theo đặc thù thị trường. Để làm được điều đó, luật cần quy định rõ trách nhiệm giải trình và cơ chế đánh giá hiệu quả của F2 gắn với KPIs minh bạch và phù hợp ngành nghề.

Cần có cơ chế đặc thù linh hoạt cho nhóm doanh nghiệp giữ vai trò then chốt, phục vụ mục tiêu chiến lược quốc gia - Ảnh minh họa

Cần có cơ chế đặc thù linh hoạt cho nhóm doanh nghiệp giữ vai trò then chốt, phục vụ mục tiêu chiến lược quốc gia - Ảnh minh họa

PV: Theo dự thảo, Luật được áp dụng cho tất cả các DNNN (có nghĩa là doanh nghiệp có quy mô nhỏ cũng như doanh nghiệp có quy mô lớn). Điều này sẽ gây khó khăn cho các tập đoàn kinh tế lớn trong hoạt động đầu tư. Vậy theo ông, liệu có cần chính sách đặc thù cho nhóm doanh nghiệp trọng yếu như năng lượng, viễn thông hay an ninh quốc phòng hay không?

PGS.TS Ngô Trí Long: Dưới góc nhìn chuyên gia, đề xuất áp dụng Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp cho tất cả các DNNN, không phân biệt quy mô, là một bước tiến quan trọng nhằm tạo sự thống nhất về thể chế. Tuy nhiên, với các tập đoàn kinh tế lớn, đặc biệt là những doanh nghiệp giữ vai trò trọng yếu trong các ngành chiến lược như năng lượng, dầu khí, viễn thông, an ninh - quốc phòng, việc áp dụng cơ chế chung có thể nảy sinh vướng mắc trong triển khai thực tế, do đặc thù hoạt động và yêu cầu chiến lược của các ngành này.

Đơn cử là các doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel), Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), hay các doanh nghiệp trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh không chỉ mang chức năng kinh doanh mà còn đảm nhận nhiệm vụ chính trị, chiến lược, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh thông tin và quốc phòng quốc gia. Việc ràng buộc quá chặt vào một khuôn khổ pháp lý thống nhất có thể gây hạn chế tính linh hoạt trong đầu tư lớn, dài hạn; làm chậm tiến trình phê duyệt các dự án trọng điểm do phải tuân thủ các quy trình như doanh nghiệp thông thường; khó khăn trong xử lý tình huống khẩn cấp hoặc mang tính đặc thù kỹ thuật, công nghệ cao.

Theo tôi, Luật nên hoàn thiện theo hướng “khuôn khổ chung - cơ chế riêng”. Luật nên giữ vai trò là khuôn khổ pháp lý chung, nhưng cần cho phép Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ ban hành các cơ chế đặc thù (quy định chi tiết hoặc nghị định riêng) đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực đặc thù, giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế. Các tập đoàn kinh tế nhà nước quy mô lớn đang nắm giữ vị trí thống lĩnh thị trường hoặc đầu mối quản lý hạ tầng thiết yếu quốc gia. Việc này không làm mất đi tính thống nhất của Luật, mà giúp đảm bảo hiệu lực thi hành linh hoạt và phù hợp với thực tiễn.

Trên thế giới, nhiều nước cũng áp dụng mô hình “tách biệt theo vai trò”. Ví dụ như Singapore với Temasek Holdings, hay Trung Quốc với các “Central SOEs” - đều có cơ chế giám sát riêng đối với các doanh nghiệp nắm giữ tài sản quốc gia trọng yếu, không áp dụng quy định giống như các doanh nghiệp thương mại thông thường.

Tóm lại, việc áp dụng chung luật cho mọi DNNN là cần thiết để đảm bảo thống nhất thể chế. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn, cần có cơ chế đặc thù linh hoạt cho nhóm doanh nghiệp giữ vai trò then chốt, phục vụ mục tiêu chiến lược quốc gia, đảm bảo không làm triệt tiêu động lực đầu tư và khả năng phản ứng nhanh của các doanh nghiệp này trong môi trường cạnh tranh và biến động cao.

PV: Xin cảm ơn ông!

Mạnh Tưởng (thực hiện)

Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/can-tao-co-che-cho-nhom-doanh-nghiep-giu-vai-tro-then-chot-trong-nen-kinh-te-728346.html