Cập nhật phác đồ điều trị mới, kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân đa u tủy xương
Nhờ sự ra đời của nhiều thuốc mới để điều trị tức thời, điều trị tái phát kháng, ghép tế bào gốc... đã giúp kéo dài thời gian sống cho người bệnh mắc đa u tủy xương những năm gần đây. Tuy nhiên, việc phát hiện sớm bệnh rất quan trọng để các phương pháp điều trị đạt hiệu quả tốt nhất.

Toàn cảnh hội thảo.
Chiều 10/9, Bệnh viện 19-8 và Công ty Johnson&Johnson phối hợp tổ chức hội thảo chuyên đề "Tiếp cận mới trong điều trị đa u tủy xương mới chẩn đoán".
Phát biểu khai mạc, Đại tá, bác sĩ chuyên khoa II, Thầy thuốc ưu tú Nguyễn Thái Hưng, Phó Giám đốc Bệnh viện 19-8 cho biết, hội thảo đề cập đến một một bệnh lý khó phát hiện và cũng tương đối khó điều trị. Hiện nay có nhiều phác đồ điều trị mới, hiệu quả, tuy nhiên việc phát hiện sớm bệnh lý ở giai đoạn đầu gặp nhiều thách thức. Bác sĩ Hưng tin tưởng những kiến thức được chia sẻ hôm nay sẽ có ích cho đội ngũ bác sĩ trong công tác khám, điều trị, chẩn đoán bệnh đa u tủy xương tại Bệnh viện 19-8.

Đại tá, bác sĩ chuyên khoa II, Thầy thuốc ưu tú Nguyễn Thái Hưng, Phó Giám đốc Bệnh viện 19-8 phát biểu khai mạc.
Nhiều phương pháp điều trị mới kéo dài thời gian sống cho người mắc đa u tủy xương
Tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa II Võ Thị Thanh Bình, Trưởng Khoa Ghép tế bào gốc, Viện Huyết học-Truyền máu Trung ương cho biết, theo Globocan năm 2022, Việt Nam có 605 trường hợp đa u tủy xương mắc mới, tử vong hàng năm là 474 ca.
Bệnh đa u tủy xương (Multiple Myeloma), còn gọi là bệnh Kahler, là một bệnh máu ác tính, đặc trưng bởi sự tăng sinh ác tính tế bào dòng plasmo trong tủy xương, xuất hiện protein đơn dòng trong huyết thanh và nước tiểu, tổn thương các cơ quan đích.
Đa u tủy xương là bệnh lý huyết học ác tính đứng hàng thứ 2 sau u lympho, không thể chữa khỏi. Bệnh này chiếm 1% tổng số bệnh ung thư và 13% các bệnh ung thư huyết học.
Tỷ lệ mắc bệnh mới hàng năm ở các nước phương tây 5,6 ca/100.000 dân, trung bình tuổi chẩn đoán là khoảng 70 tuổi.
Theo bác sĩ Bình, nguy cơ cao của đa u tủy xương là bệnh dễ kháng với điều trị và chiếm tỷ lệ 20% khi mới chẩn đoán. Đặc điểm của bệnh dễ kháng với điều trị là bệnh tiến triển nhanh; đáp ứng kém với hóa chất; đòi hỏi điều trị tích cực hơn so nhóm chuẩn để đạt lui bệnh sâu nhất, nghĩa là không “để dành thuốc”.

Tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa II Võ Thị Thanh Bình, Trưởng Khoa Ghép tế bào gốc, Viện Huyết học-Truyền máu Trung ương (giữa) chia sẻ tại hội thảo.
Khoảng thời gian từ khi tái phát sinh hóa đến khi tái phát trên lâm sàng rất nhanh, do đó cần can thiệp và thay đổi phác đồ ngay khi có dấu hiệu tái phát trên sinh hóa.
Do đó, về phương pháp điều trị hiện nay là cần điều trị ngay phác đồ tốt nhất trước khi bệnh nhân kháng thuốc; điều trị liên tục để giúp bệnh nhân đạt lui bệnh sâu và duy trì lui bệnh.
Sự ra đời các thuốc mới như Pls, IMIDs và kháng thể đơn dòng; Car T, kháng thể kép là cuộc cách mạng trong điều trị đa u tủy xương. Đến năm 2022, bệnh nhân đa u tủy xương có chỉ định ghép tự thân và đây là phương pháp điều trị chuẩn trong các hướng dẫn của ASCO và ESMO.
Nếu như trước đây, bệnh nhân mắc bệnh lý này chỉ sống 2-3 năm, giờ có thể sống đến 10 năm. Sau khi được ghép tế bào gốc tạo máu thì cơ hội sống của bệnh nhân sẽ kéo dài hơn.
Theo bác sĩ Bình, ghép tự thân cho đa u tủy xương được xem là phương pháp tối ưu nhất hiện nay, ngoài tiêu diệt tế bào ung thư, còn điều chỉnh khả năng miễn dịch của bệnh nhân.
Tại hội thảo, bác sĩ Bình cũng nhấn mạnh đến vai trò của Daratumumab và tiếp cận mới trong điều trị đa u tủy xương mới chẩn đoán đủ điều kiện ghép tế bào gốc tự thân. "Hy vọng tới đây bảo hiểm y tế sẽ hỗ trợ phần nào thanh toán cho thuốc này", bác sĩ Bình nói.
Các triệu chứng thường gặp của bệnh nhân đa u tủy xương bao gồm:
- Đau xương, gãy xương, u xương
- Táo bón, buồn nôn, nôn
- Mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt
- Sốt, ho, khạc đờm, viêm phổi,…
- Suy thận, có bệnh nhân suy thận nặng cần thận nhân tạo.
- Chảy máu võng mạc, mũi, …
Chẩn đoán nhầm sẽ bỏ lỡ cơ hội điều trị
Theo bác sĩ chuyên khoa I Phạm Thị Việt Anh, Trung tâm Huyết học-Truyền máu, Bệnh viện 19-8, năm 2010, Trung tâm bắt đầu điều trị hóa trị liệu đa u tủy xương. Trong 54 bệnh nhân khám và được chẩn đoán tại trung tâm có 9 bệnh nhân điều trị; 2 trường hợp ghép tế bào gốc (2010, 2013).
Thông qua buổi hội thảo, bệnh viện mong muốn tiếp cận thêm các kiến thức mới, khởi động lại công tác ghép tế bào gốc sau hơn 10 năm triển khai. Bên cạnh đó, bệnh viện muốn cập nhật thuốc ức chế miễn dịch vào trong phác đồ điều trị để đối với những bệnh nhân tái phát hoặc không đáp ứng phác đồ cũ sẽ sử dụng phác đồ mới điều trị.
Tuy nhiên, hiện trung tâm còn gặp nhiều khó khăn trong công tác chẩn đoán như thiếu xét nghiệm; thiếu thuốc. Việc chi trả bảo hiểm còn hạn hẹp nên bệnh nhân ít được chụp CT và MRI xương. Bên cạnh đó, bệnh viện chưa có bác sĩ đào tạo chuyên sâu đọc tế bào; chưa có phòng ghép.

Bác sĩ chuyên khoa I Phạm Thị Việt Anh, Trung tâm Huyết học-Truyền máu, Bệnh viện 19-8 chia sẻ tại hội thảo.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Vũ Đức Bình, Phó Viện trưởng Viện Huyết học-Truyền máu Trung ương, bệnh đa u tủy xương là bệnh khó chẩn đoán, khó điều trị. Bên cạnh đó, bệnh này liên quan nhiều chuyên khoa trong điều trị như gẫy xương, suy thận, nhiễm trùng dẫn tới chẩn đoán nhầm.
"Có nhiều trường hợp điều trị xương, thận thời gian rất dài, nhưng đến khi tới Viện Huyết học-Truyền máu Trung ương mới tìm ra đúng căn nguyên bệnh lý là mắc bệnh đa u tủy xương thì việc điều trị đã muộn, rất đáng tiếc", Tiến sĩ, bác sĩ Vũ Đức Bình nói.
Cũng theo bác sĩ Việt Anh, bệnh lý đa u tủy xương thường phát hiện muộn và khi có những triệu chứng đau xương, khớp sẽ chỉ nghĩ đến bệnh tuổi già, bỏ sót giai đoạn phát hiện sớm để điều trị kịp thời. Vì thế, thông qua buổi hội thảo này cũng muốn cảnh báo các bác sĩ chuyên ngành tại bệnh viện biết được các triệu chứng nghi mắc đa u tủy xương để gửi đến đúng chuyên khoa, phát hiện sớm, điều trị kịp thời.
Tại hội thảo, bác sĩ chuyên khoa I Phạm Thị Việt Anh cũng bày tỏ mong muốn Bệnh viện 19-8 sớm xây dựng phòng ghép tiêu chuẩn; đào tạo chuyên sâu, nâng cao chuyên môn; triển khai ghép các bệnh lý huyết học khác như u lympho, leukmia.