Câu chuyện về những tấm lòng

Những năm chống Mỹ cứu nước, Nhân dân miền Bắc đã từng chắt chiu từng hạt muối, hạt gạo..., đóng góp máu xương cùng Nhân dân miền Nam chiến đấu chống đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước như thế nào, đó là chuyện to tát tôi không có tham vọng kể tới. Tôi chỉ kể lại những câu chuyện nhỏ trong phạm vi học sinh miền Nam (HSMN) mà lúc ra Bắc, dẫu còn rất nhỏ, chúng tôi đã biết cảm nhận, biết ơn và trân quý suốt cuộc đời mình.

Bảy mươi năm không phải là thời gian ngắn, nhưng những ân tình của đồng bào miền Bắc, của thầy cô giáo người Bắc vẫn hằn sâu trong ký ức của mỗi HSMN chúng tôi. Nó luôn là ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời những cậu bé, cô bé xa nhà không hẹn được ngày về. Nó là những biểu tượng cao đẹp khiến chúng tôi luôn thao thức và dặn lòng phải làm việc không mệt mỏi, phải sống cho thật đẹp để đền ơn đáp nghĩa những người đã xây dựng nền móng, cho ta cái nghĩa làm người.

Còn nhớ những ngày đầu con tàu tập kết cặp bến Sầm Sơn, chúng tôi được bà con Thanh Hóa, già trẻ, bé lớn xếp hàng đông nghẹt vẫy cờ, hoa, vẫy tay đón tiếp vô cùng nồng hậu. Chúng tôi lập tức được đưa về các lán trại có những sạp dài lót sẵn những lớp rơm dầy cho khỏi rét - tháng 11, 12, tháng 1 miền Bắc đang giữa những ngày đông lạnh. Chúng tôi được ăn uống bồi dưỡng sau những ngày trên biển, bình yên và ấm cúng. Ðến sau khoảng một tuần, chúng tôi được bố trí tới ở tạm các nhà dân, chờ xe đưa về khu trường nội trú dưới Hải Phòng, phải nhường lán trại đón chuyến tàu sau.

Hải Phòng tập trung gần hết các trường HSMN. Biểu tượng hai bàn tay mẹ Hải Phòng che chở những “hạt giống đỏ” HSMN trên đất Bắc, được đặt tại Vườn hoa Nguyễn Du, TP Hải Phòng. (Ảnh Ban Liên lạc HSMN cung cấp)

Hải Phòng tập trung gần hết các trường HSMN. Biểu tượng hai bàn tay mẹ Hải Phòng che chở những “hạt giống đỏ” HSMN trên đất Bắc, được đặt tại Vườn hoa Nguyễn Du, TP Hải Phòng. (Ảnh Ban Liên lạc HSMN cung cấp)

Những ngày ở tạm nhà dân, là những ngày mà cho đến bây giờ chỉ nghĩ tới thôi mắt tôi đã cay xè, ứa lệ. Ðó là cảnh, tuy ở rải rác nhưng chúng tôi ăn cơm chung một chỗ. Chỗ ăn là một ngôi nhà lá cọ nhỏ, có bếp nấu và bàn ăn, bên ngoài là hàng rào bao bọc. Khi chúng tôi ăn cơm, nhiều trẻ em miền Bắc đứng bên ngoài nhìn vào thèm thuồng, nhưng chúng tôi không được phép chia sẻ, vì có các cô chú canh giữ.

Sau chiến thắng lịch sử Ðiện Biên Phủ, miền Bắc chưa kịp bắt tay làm kinh tế, Nhân dân một số nơi thu hoạch mùa màng không đủ trang trải cuộc sống. Một số nơi còn đói. Thanh Hóa trong diện đói. Nhưng cán bộ, bộ đội, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc vẫn đảm bảo được no, vì đó còn là vấn đề đấu tranh chính trị với chính quyền miền Nam.

Những ngày sau đó, chúng tôi được đưa về các trường nội trú ở Hải Phòng, mọi hoạt động đi vào nền nếp, quy củ của một ngôi trường nội trú hiện đại theo các nước tiên tiến. Có điều HSMN không phải giống nhau, đa số các bạn có cha mẹ, anh chị em, chú bác, dì dượng thân thuộc ra cùng. Những bạn ấy ngày nghỉ nếu ở gần, được người thân đón về; còn người thân ở xa thì về cùng gia đình dịp hè, Tết. Bộ phận “chỉ một mình” không người đón, ở lại trường, tiếp tục ăn cơm tập thể cũng không ít. Số này, chúng tôi đã có những cái Tết và hè cũng rất đáng nhớ...

Thường khi Tết đến, thầy cô, nhà trường chú tâm tổ chức Tết thật “quê hương” để an ủi chúng tôi. Như tổ chức gói bánh tét, bánh ít, làm các loại mứt miền Nam. Tổ chức đón Giao thừa... Sáng mùng 1 Tết, chúng tôi được chia nhau về các gia đình ở gần trường ăn Tết, để cảm nhận không khí quê hương, tình cảm ấm áp của gia đình. Những thầy cô giáo người miền Nam ở lại trường không nói, còn có những thầy cô người miền Bắc cũng ở lại ăn Tết với chúng tôi. Những tấm lòng đó của đồng bào, thầy cô người miền Bắc có thể nào quên...

Những mùa hè, nhóm “mồ côi” của chúng tôi được một số địa phương đón về nuôi dưỡng, cho nghỉ ngơi. Có khi nửa tháng, có khi một tháng hơn... Thường là những nơi có điểm nghỉ, có bãi tắm như ở Quảng Ninh (Bãi Cháy), Ðồ Sơn.

Có thể nói, trong quãng đời HSMN đó cho đến hết đại học, Bác Hồ, Ðảng lo hết; Nhân dân miền Bắc nhường cơm sẻ áo, lo hết; thầy cô chăm sóc, lo lắng hết. Chúng tôi không phải lo và không thiếu thốn gì.

Vậy mà..., không phải cứ HSMN là tất cả đều ngoan; HSMN là không biết quậy phá. Cánh trường nữ không nói tới, chắc vì không có cái gan to. Còn cánh con trai ở các trường HSMN khỏi phải nói. Thỉnh thoảng vào vườn nhà dân nhổ trộm khoai, chặt trộm mía, đốn trộm chuối, nhổ cải, nhổ hành về ăn. Lần mò, lén lút, thầy cô không biết. Dân cũng chỉ phản ánh qua loa, cũng không nặng nhẹ gì. Có lần, đêm vào trộm gà, dân bắt giữ. Bạn khác mặc đồ “vía”, xách cặp, đeo kính giả làm thầy tới giải thoát cho bạn.

Rồi cũng xong. Không phải dân không biết làm hung làm dữ, nhưng vì thương các cháu HSMN xa nhà đang độ tuổi ăn tuổi lớn...

Thương nhất những thầy giáo, cô giáo người miền Bắc dạy trường HSMN chúng tôi. Ở những ngôi trường đó, thầy cô chính là cha mẹ. Chúng tôi xa nhà, mọi tâm tư, tình cảm có vấn đề gì, chúng tôi đều bấu víu vào thầy cô, như bấu víu vào cha mẹ mình. Thầy cô lắng nghe, giải tỏa và gắn bó... Có rất nhiều thầy cô cứ đeo bám học trò, chăm sóc từng li từng tí, yêu thương như con ruột đẻ ra, dù chưa có vợ con.

Rồi thầy cô quên cả chuyện lấy vợ, lấy chồng. Giải phóng rồi, HSMN ai về quê nấy, quý thầy cô tuổi đã ngấp nghé 50. Quý thầy còn tìm được vợ, còn các cô, có người ở vậy cho đến già. Thử hỏi có tình cảm, sự hy sinh nào cao quý vậy, như thầy cô dạy trường HSMN.

Sau giải phóng, HSMN trưởng thành về quê miền Nam phục vụ. Còn một số học chưa xong, các em tiếp tục học tập, trưởng thành. Ðội ngũ đó giữ nhiều nhiệm vụ và chức danh quan trọng từ Trung ương tới địa phương. Họ đều có chung một điểm là hướng lòng mình về miền Bắc, về những đùm bọc, hy sinh dành cho mình. Lần lượt họ về các địa phương trường đóng hoặc trường ở lúc sơ tán, xây ở đó những biểu tượng ghi dấu nghĩa tình, những ngôi trường, những con đường, những nếp nhà tình nghĩa. Họ trang bị máy móc thiết bị cho các trường phổ thông. Họ hỗ trợ học bổng và phương tiện cho các em học sinh các nơi họ đã đi qua...

Ðiều chắc chắn tôi muốn nói là, dẫu có bù đắp bao nhiêu đi chăng nữa cũng không sao đền đáp được công ơn của đồng bào, của thầy cô miền Bắc hy sinh cho HSMN chúng tôi trong những ngày tháng túng khó đó.

Tôi nghĩ, câu chuyện tôi kể lại hôm nay, dẫu rất sơ sài, nhưng cũng là một ký ức đẹp trong cuộc đời chúng tôi, một nét riêng của trang sử đất nước những ngày chống Mỹ...

Ðàm Thị Ngọc Thơ

Nguồn Cà Mau: https://baocamau.vn/cau-chuyen-ve-nhung-tam-long-a33553.html