Câu đối hồng điều thắm Tết ta!
Câu đối là thể thơ hai câu, thể thơ ngắn nhất, chỉ bằng một nửa số câu của thơ tứ tuyệt, không cần vần nhưng nghiêm cẩn về trắc, bằng và khắt khe về đối. Các chữ tương ứng trong hai câu phải cùng dạng từ (danh từ đối với danh từ, tính từ đối với tính từ, số từ đối với số từ…) và phần lớn đối nhau về thanh (thanh bằng đối với thanh trắc).
“Tết đến rượu ngon đưa mấy chén
Xuân về bút mới thử vài trang”
Là người Việt Nam, không mấy ai xa lạ với câu đối:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.
Câu đối giản dị này cho mọi người biết những thứ làm nên cái Tết của người Việt một thời. Về vật chất, có thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh; về tinh thần, có cây nêu, tràng pháo, câu đối. Mỗi bên ba thứ như để cân bằng!
Không ai biết cụ thể câu đối này ra đời từ thời nào, nhưng chắc chắn là rất lâu, có thể mấy trăm năm, thậm chí ngàn năm. Thời gian trôi đi, nhiều thứ thay đổi: ba thứ vật chất góp nên Tết ấy thì “thịt mỡ” gần như bị loại trừ, còn “bánh chưng” và “dưa hành” vẫn giữ nguyên vị trí. Về tinh thần, “tràng pháo” đã bị loại trừ, “cây nêu” còn lẻ tẻ ở các vùng nông thôn, nhưng câu đối vẫn rôm rả lắm!
Ngày xưa, câu đối thường được viết hoặc in trên giấy hồng điều. Sắp Tết, người ta bày bán ở chợ, người đi chợ mua về dán lên cột nhà. Dù vật chất chưa sắm được bao nhiêu, không khí Tết đã vào nhà, làm lòng người trong gia đình phấn chấn cho cái Tết đoàn tụ. Còn những kẻ ly hương càng thêm nhớ nhà, như nhà thơ Nguyễn Bính từng viết trong mùa “xuân tha hương”:
“Cột nhà hàng xóm lên câu đối
Em đọc tương tư giữa giấy hồng”.
Câu đối là thể thơ hai câu, thể thơ ngắn nhất, chỉ bằng một nửa số câu của thơ tứ tuyệt, không cần vần nhưng nghiêm cẩn về trắc, bằng và khắt khe về đối. Các chữ tương ứng trong hai câu phải cùng dạng từ (danh từ đối với danh từ, tính từ đối với tính từ, số từ đối với số từ…) và phần lớn đối nhau về thanh (thanh bằng đối với thanh trắc).
Trong thơ cổ, có nhiều thể loại thơ sử dụng các cặp câu biền ngẫu như thể văn tế, thể phú, các cặp thực, luận của thơ Đường luật… nhưng câu đối là thể loại sử dụng biền ngẫu nghiêm ngặt nhất. Bởi thế, mặc dù mỗi “bài” chỉ có hai câu, nhưng có khi làm tác giả mất ăn mất ngủ nhiều đêm, mong có câu đối chỉnh và hay. Đây là trò chơi chữ chỉ dành cho những người giàu ngôn từ và thích động não.
Cũng từ cái khó của câu đối, dân ta coi đó là một trò chơi chữ để mọi người thi thố. Mà Tết ta, tức Tết Nguyên đán, là Tết ăn chơi, và câu đối đảm trách một phần của trò chơi chữ ấy!
Ngày xưa, tác giả những câu đối Tết là những người “hay chữ,” tức các cụ đồ Nho, điển hình là các nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…
Cụ Nguyễn Khuyến có khi cảm thấy Tết, xuân chạm đến bất ngờ:
“Tối ba mươi nghe pháo nổ đì đùng, ờ ờ Tết
Sáng mồng một chạm nêu đánh cộc, à à Xuân”.
Cụ nói như thể nếu không có hai thứ đặc trưng là pháo và nêu, cụ chưa biết Tết, xuân là gì! Nhưng bản thân cụ cũng chứng kiến niềm vui chung của dân làng trong cảnh Tết, xuân:
“Già trẻ gái trai đều khoái Tết
Cỏ cây hoa lá cũng mừng xuân.”
Mọi người là thế, còn cụ có niềm vui riêng:
“Tết đến rượu ngon đưa mấy chén
Xuân về bút mới thử vài trang”.
“Vài trang” ấy chắc là trang thơ khai bút mừng xuân của cụ Tam Nguyên Yên Đổ?
Nguyễn Công Trứ nói hộ tâm trạng của người nghèo khó, suốt năm nợ nần, chỉ mong năm mới đến để thay đổi:
“Chiều ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà”.
Với bọn trẻ ngày xưa, Tết vui nhất là được đốt pháo. Nhưng với người cao tuổi như cụ Nguyễn Khuyến, việc được uống rượu say, nằm khoèo sướng hơn nhiều:
“Chúng nó dại vô cùng, pháo nổ đì đùng thêm mất chó
Ông đây khôn bất trị, rượu say túy lúy lại nằm mèo”.
Bạn đọc dễ nhận ra sự đùa cợt của tác giả, nhất là tự khen mình “khôn bất trị”!
Còn nhà thơ Tú Xương, liên tiếp hỏng thi ngót chục lần, phải “ăn lương vợ,” gia đình túng thiếu, ông luôn thấy đời màu xám. Nghe tiếng pháo Tết, ông phẫn chí thốt lên:
“Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo
Nhân tình bạc thế lại bôi vôi!”
Thì không hề đùa, mà là một lời trách móc, phản kháng thực tại của một người thất thế.
Trên đây chỉ là một vài câu ít ỏi trích ra từ kho tàng câu đối Tết phong phú của dân tộc ta. Từng thế kỷ trôi qua, thời thế thay đổi, nhưng câu đối vẫn thủy chung với Tết và “cập nhật” thêm nội dung của thời đại.
Tôi nhớ khoảng năm 1959, trên báo Tết của Quân đội Nhân dân có đăng một vế thách đối vừa hay vừa khó:
“Đêm ba mươi thương chiến sĩ phòng không, cô dân quân chống lầy kéo pháo.”
Mới đọc qua, nhiều người tưởng đơn giản, nhưng khi bắt tay vào tìm vế đối mới nhận thấy hai tầng nghĩa của vế ra đi song song với nhau.
Tầng nghĩa thứ nhất: Ai cũng nhận thấy ngay, đó là chuyện cô dân quân giúp bộ đội kéo pháo qua đường lầy.
Tầng nghĩa thứ hai: Nằm ở chữ “chống lầy,” nói lái thành “lấy chồng,” và “chiến sĩ phòng không” là chiến sĩ chưa có vợ, chưa lập gia đình.
Như vậy, tầng nghĩa thứ hai phải hiểu là: “Đêm ba mươi thương chiến sĩ chưa lập gia đình, cô dân quân lấy chồng kéo pháo.” Vế đối đòi hỏi chứa đựng hai tầng nghĩa ấy, mà tự nhiên, không gò ép, làm bao người “lao tâm khổ tứ,” cuối cùng đành bó tay, mà nhắc lại câu nói của người xưa:
“Xuất đối dĩ, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối!”
Nhưng tác giả của vế ra này, gần bảy mươi năm rồi vẫn vắng bặt tăm hơi, nên vế ra vẫn treo lơ lửng giữa đời mà không có vế đối!
Ngày nay, trên hàng trăm tờ báo Tết ở nước ta có đăng rất nhiều câu đối. Chưa cần đọc, chỉ cần thấy màu sắc hoa đào trên tranh minh họa và màu hồng điều câu đối là đã cảm nhận cảnh xuân Tết tràn ngập tâm hồn. Nội dung câu đối Tết trên báo hiện nay đề cập được rất nhiều đề tài, nhưng trò chơi chữ, một đặc trưng của câu đối, dường như chưa được coi trọng.
Bản thân tôi cũng từng đăng nhiều câu đối Tết, nhưng chỉ có một câu tôi tâm đắc nhất:
“Hối lộ, lộ rồi không kịp hối
Tham ô, ô uế có còn tham?”
Chắc các tác giả khác cũng có một ít câu tâm đắc như vậy?
Xuân Ất Tỵ
Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/cau-doi-hong-dieu-tham-tet-ta-160084.html