Cây ăn trái 'dò' được tín hiệu thị trường nhưng vẫn loay hoay với chất lượng

Nhu cầu thị trường được xem là 'đòn bẩy' để ngành hàng trái cây Việt Nam phát triển sản xuất, tạo giá trị cho các chủ thể tham gia. Thế nhưng, kinh nghiệm cho thấy, vấn đề không kém phần quan trọng là phải chuẩn hóa chất lượng, đáp ứng yêu cầu thị trường tiêu thụ…

Sầu riêng là loại cây trồng "bắt nhịp" thị trường tốt nhất hiện nay. Ảnh: KA

Sầu riêng là loại cây trồng "bắt nhịp" thị trường tốt nhất hiện nay. Ảnh: KA

"Dò" được nhu cầu từ trường hợp sầu riêng

Quyết định chọn lựa một loại cây trồng nào hay chuyển đổi từ cây trồng này sang cây trồng khác, yếu tố nhu cầu thị trường luôn được người nông dân chú trọng. Bởi lẽ, sản xuất phải có thị trường tiêu thụ mới hy vọng cải thiện được đời sống kinh tế.

Trao đổi với KTSG Online, ông Võ Văn Ngân, ngụ xã Thạnh Phú, tỉnh Đồng Tháp, người quyết định chuyển đổi 5 công (5.000 m2) đất lúa sang cây sầu riêng cách đây một năm, thừa nhận việc chuyển đổi do thị trường tiêu thụ loại trái cây này thời gian qua rất tốt, lợi nhuận cao gấp 10 lần cây lúa. “Mình (ông Ngân) chuyển sang sầu riêng vì lợi nhuận cao hơn lúa, Trung Quốc tiêu thụ nhiều”, ông giải thích.

Khi nói đến sản xuất phải theo tín hiệu của thị trường, tức xuất phát từ nhu cầu của thị trường quay lại tổ chức phát triển sản xuất, rõ ràng sầu riêng là loại cây trồng đã và đang làm rất tốt yếu tố này.

Vấn đề nêu trên đã được chứng minh, đó là nếu như năm 2021, tổng giá trị xuất khẩu sầu riêng Việt Nam sang Trung Quốc- thị trường có thời điểm chiếm đến 97% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành- chỉ đạt khoảng 178 triệu đô la Mỹ, thì bước sang năm 2022 đạt 277 triệu đô la Mỹ.

Nhu cầu thị trường Trung Quốc đối với trái sầu riêng Việt Nam đã thật sự “bùng nổ” khi bước sang năm 2023 đạt hơn 2 tỉ đô la Mỹ, tăng 622% so với năm 2022 và đạt 3,3 tỉ đô la Mỹ năm 2024, tiếp tục tăng 65% so với năm 2023.

Trước tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hay nói cách khác trước nhu cầu khổng lồ của thị trường Trung Quốc như nêu trên, việc tổ chức sản xuất sầu riêng ở trong nước cũng liên tục tăng theo nhanh chóng.

Theo đó, giai đoạn 2015- 2024, bình quân mỗi năm Việt Nam có thêm 16.300 héc ta sầu riêng được trồng mới, từ 32.000 héc ta đã nhanh chóng nhảy vọt lên 178.000 héc ta, với sản lượng từ 126.000 tấn tăng lên 1,5 triệu tấn.

Dĩ nhiên, con số hiện nay vẫn đang tiếp tục tăng khi thực tế nông dân ở nhiều địa phương Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng và các vùng trọng điểm sản xuất sầu riêng cả nước nói chung vẫn đang tăng theo thời gian.

Bà Phan Thị Thu Hiền, Giám đốc Trung tâm kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu II (Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tại một hội thảo ngành hàng cây ăn trái diễn ra mới đây ở thành phố Cần Thơ, nhấn mạnh cốt lõi để phát triển ngành cây ăn trái vẫn là bán những gì thị trường cần. “Khi người ta cần người ta mới mua”, bà nói.

Chất lượng đáp ứng thị trường là yếu tố quan trọng không thể thiếu. Ảnh: KA

Chất lượng đáp ứng thị trường là yếu tố quan trọng không thể thiếu. Ảnh: KA

Nhưng chưa đủ để thị trường tiếp nhận bền vững

Nhu cầu thị trường là yếu tố ban đầu và quan trọng để lựa chọn một loại cây trồng sản xuất, nhưng muốn bán được sản phẩm cần phải chuẩn hóa chất lượng, sản xuất theo yêu cầu thị trường đặt ra.

“Sản phẩm muốn bán được mình phải sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu”, bà Hiền của Trung tâm kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu II nhấn mạnh.

Theo đó, trái cây Việt Nam muốn xuất khẩu phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật, tức lô hàng được chứng nhận đáp ứng được các điều kiện của thị trường nhập khẩu đưa ra. “Muốn vậy, lô hàng không nhiễm đối tượng kiểm dịch thực vật của nước nhập khẩu; không có các loại côn trùng gây hại còn sống”, bà Hiền cho biết.

Để xử lý đối tượng kiểm dịch thực vật, một số thị trường nhập khẩu như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…, yêu cầu sản phẩm trước khi xuất khẩu phải qua bước xử lý chiếu xạ hoặc xử lý bằng hơi nước nóng để tiêu diệt đối tượng gây hại.

Chẳng hạn, với đối tượng kiểm dịch thực vật là ruồi đục trái, qua hơi nước nóng đối tượng gây hại này sẽ bị xử lý, giúp sản phẩm đảm bảo an toàn khi xuất khẩu. “Đây là quy trình (xử lý bằng hơi nước nóng) đã được nghiên cứu, an toàn cho sản phẩm xuất khẩu”, bà Hiền nói.

Ngoài ra, các thị trường nhập khẩu hiện đưa ra một số yêu cầu chung, bao gồm sản phẩm xuất khẩu phải có mã số vùng trồng và được xử lý tại cơ sở được cấp mã số cơ sở đóng gói...

Ngoài quy định chung, tùy từng thị trường nhập khẩu sẽ có thêm những quy định riêng, trong đó, kể từ đầu năm 2025 đến nay, sầu riêng Việt Nam muốn xuất khẩu sang Trung Quốc, phải an toàn theo quy định của quốc gia này về thành phần Cadimi và chất Vàng O.

Thực tế, thời gian qua, sau khi Trung Quốc “bổ sung” quy định nêu trên đã tạo ra không ít khó khăn cho việc xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam vào thị trường tỉ dân này, dù nhu cầu của họ được xác định là rất lớn.

Sản phẩm an toàn, đáp ứng yêu cầu thị trường nhập khẩu là điều cần phải tuân thủ tuyệt đối, tuy nhiên, có không ít trường hợp việc liên kết với doanh nghiệp để tiêu thụ vẫn còn nhiều vấn đề phải quan tâm hơn.

Ông Trần Thiện Thanh, Phó giám đốc Hợp tác xã sầu riêng Trường Phát (thành phố Cần Thơ), cho biết đơn vị này có hai mã số vùng trồng được cấp phép xuất khẩu đi thị trường Trung Quốc, nhưng sau lô hàng đầu tiên xuất đi vào năm 2023, đến nay không có doanh nghiệp nào đến hỗ trợ liên kết tiêu thụ. “Chúng tôi sản xuất và được cấp tiêu chuẩn VietGAP (thực hành sản xuất tốt theo tiêu chuẩn Việt Nam) nhưng việc tiêu thụ chưa được thỏa đáng”, ông nêu thực trạng.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Đình Mười, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Vina T&T, thừa nhận việc thiếu liên kết hoặc “đứt gãy” trong chuỗi liên kết tiêu thụ giữa doanh nghiệp và hợp tác xã hiện nay có hai lý do chính, thứ nhất do hai bên chưa đồng thuận được mặt giá cả và thứ hai là không có được sản phẩm đạt chất lượng.

Từ đó, theo ông Mười, giữa doanh nghiệp và hợp tác xã cần ngồi lại, đối thoại để “có tiếng nói chung”. “Liên kết phải có sự chia sẻ mới bền vững được”, ông nói và dẫn chứng, đơn vị này và một số đối tác đồng hành xuyên suốt 9 năm qua nhờ “chia sẻ” rủi ro, tức khi nông dân gặp khó khăn doanh nghiệp nâng giá để hỗ trợ và ngược lại.

Qua thực tế nêu trên, rõ ràng việc sản xuất theo nhu cầu của thị trường là cần thiết, nhưng quan trọng hơn để sản phẩm bán được cần phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu, có sự chia sẻ giữa các tác nhân tham gia chuỗi liên kết ở trong nước…

Trung Chánh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/cay-an-trai-do-duoc-tin-hieu-thi-truong-nhung-van-loay-hoay-voi-chat-luong/