Chỉ số giá tiêu dùng năm 2024 tăng 3,63%

Điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo Thông tư số 21/2024/TT-BYT, giá nhà ở thuê, giá xăng dầu tăng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 tăng 0,29% so với tháng trước. CPI bình quân năm 2024 tăng 3,63% so với năm trước.

Theo lý giải của Tổng cục Thống kê tại họp báo công bố tình hình - kinh tế xã hội quý IV hôm nay (6/1), một số địa phương thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo Thông tư số 21/2024/TT-BYT, giá nhà ở thuê, giá xăng dầu tăng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2024 tăng 0,29% so với tháng trước.

9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng

Trong mức tăng 0,29% của CPI tháng 12/2024 so với tháng trước, có 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 2 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.

Thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,19% khiến CPI tháng 12/2024 tăng 0,29% so với tháng trước. (Ảnh minh họa)

Thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,19% khiến CPI tháng 12/2024 tăng 0,29% so với tháng trước. (Ảnh minh họa)

Cụ thể, nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,19%, trong đó chỉ số giá nhóm dịch vụ y tế tăng 2,84% do một số địa phương điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo mức lương cơ sở 2.340.000 đồng. Bên cạnh đó, thời tiết chuyển sang mùa đông, nhiệt độ chênh lệch nhiều giữa ban ngày và ban đêm nên bệnh cảm cúm, đường hô hấp gia tăng, nhu cầu tiêu dùng các loại thuốc về giảm đau, hạ sốt, đường hô hấp, vitamin và khoáng chất của người dân tăng.

Giá nhóm thuốc giảm đau, thuốc hạ sốt tăng 0,27%; hóc môn và các thuốc tác động vào hệ nội tiết tăng 0,23%; thuốc tác dụng trên đường hô hấp tăng 0,15%; thuốc tim mạch tăng 0,13%; thuốc vitamin và khoáng chất và thuốc chống dị ứng tăng 0,12%.

Nhóm giao thông tăng 0,57%, chủ yếu do nhu cầu của người dân di chuyển tăng vào dịp cuối năm làm cho giá vận tải hành khách bằng đường sắt tăng 4,03%; vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 2,06%; vận tải hành khách bằng taxi tăng 1,24%; vận tải hành khách bằng xe buýt tăng 0,16%; vận tải hành khách đường bộ tăng 0,11%; vận tải hành khách bằng đường thủy tăng 0,09%.

Giá xăng tăng 1,21%; giá dầu mỡ nhờn tăng 0,16% theo các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,3%; dịch vụ khác đối với phương tiện vận tải cá nhân tăng 0,11%; giá phương tiện đi lại tăng 0,14%, trong đó giá xe máy tăng 0,23%; xe đạp tăng 0,17%; xe ô tô mới tăng 0,08%; giá phụ tùng tăng 0,11%, trong đó giá lốp, săm xe máy tăng 0,16%; lốp, săm xe đạp tăng 0,14%; phụ tùng khác của xe máy tăng 0,13%. Riêng giá dầu diezen giảm 0,07% do các đợt điều chỉnh giá trong tháng.

Tiếp theo, nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,53%, chủ yếu tăng giá ở một số mặt hàng như giá thuê nhà tăng 0,76% do nhu cầu thuê chung cư, nhà trọ tăng, bên cạnh đó giá bất động sản tăng cao trong thời gian qua làm cho giá thuê nhà tăng; giá điện sinh hoạt tăng 0,75% do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân từ ngày 11/10/2024; giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,44%; giá dịch vụ khác liên quan đến nhà ở tăng 0,12% do nhu cầu tăng vào dịp cuối năm; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,11% do giá xi măng, giá thép tăng theo nhu cầu tiêu dùng.

Ở chiều ngược lại, giá nước sinh hoạt giảm 0,03% do thời tiết vào mùa đông nên nhu cầu tiêu dùng giảm; giá dầu hỏa giảm 0,98% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng.

Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,28% do chi phí nhân công, chi phí vật liệu và nhu cầu mua sắm tăng vào dịp cuối năm. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,22%, trong đó, giá dịch vụ về hỉ tăng 0,53% do nhu cầu tăng cao vào dịp cuối năm; sửa chữa đồng hồ đeo tay tăng 0,6%; hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,43%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 0,33%; cắt tóc gội đầu tăng 0,47%.

Trong khi đó, nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,2%, tập trung chủ yếu ở những mặt hàng như du lịch trong nước tăng 1,23%; phí truyền hình và internet tăng 0,23%; du lịch nước ngoài tăng 0,22%; dịch vụ liên quan đến vật nuôi tăng 0,21%.

Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,2%, chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng tăng vào dịp Giáng sinh và chuẩn bị cho dịp tết sắp tới. Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,17% do nhu cầu tiêu dùng tăng vào mùa cưới và thời tiết chuyển sang mùa đông. Nhóm giáo dục tăng 0,16%, trong đó giá dịch vụ giáo dục đại học tăng 0,52% do một số trường đại học tăng học phí. Ngoài ra, giá sản phẩm từ giấy tăng 0,12%; giá bút viết tăng 0,38%.

CPI bình quân năm 2024 tăng 3,63% so với năm trước

Tính chung cả năm 2024, CPI tăng 3,63% so với năm trước, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Chỉ có 2 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm là nhóm bưu chính, viễn thông và nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống. Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,03%, còn nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,13%,

Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 12/2024 so với tháng trước.

Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 12/2024 so với tháng trước.

CPI bình quân quý IV/2024 tăng 2,87% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Hàng hóa và dịch khác tăng 6,97%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 6,29%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,81%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,15%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,33%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,20%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,41%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,14%; bưu chính, viễn thông giảm 0,52%; giáo dục giảm 0,81%; giao thông giảm 2,49%.

Lạm phát cơ bản tháng 12/2024 tăng 0,25% so với tháng trước, tăng 2,85% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,71% so với năm 2023, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (3,63%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 31/12/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.659,6 USD/ounce, giảm 0,62% so với tháng 11/2024 do chịu áp lực từ đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ đều tăng.

Trong tháng 12/2024, mặc dù Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) giảm lãi suất 0,25% nhưng tín hiệu thận trọng về lộ trình giảm lãi suất trong năm 2025 đã tác động tiêu cực đến giá vàng, làm giá vàng hạ xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 11/2024. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 12/2024 giảm 1,38% so với tháng trước; tăng 31,07% so với cùng kỳ năm trước; bình quân cả năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 28,64%.

Tính đến ngày 31/12/2024, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 106,98 điểm, tăng 1,46% so với tháng trước do lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm đạt mức cao, làm đồng USD hấp dẫn hơn với nhà đầu tư. Cùng với đó, chính sách tiền tệ của FED duy trì lãi suất cao và nhu cầu ngoại tệ tăng mạnh vào cuối năm đã góp phần làm tăng giá trị đồng đô la Mỹ.

Trong nước, giá USD bình quân trên thị trường tự do dao động quanh mức 25.488 VND/USD. Chỉ số giá USD tháng 12/2024 tăng 0,09% so với tháng trước; tăng 4,31% so với cùng kỳ năm trước; bình quân năm 2024 tăng 4,91%.

Đức Bình

Nguồn Giao Thông: https://www.baogiaothong.vn/chi-so-gia-tieu-dung-nam-2024-tang-363-192250106144928484.htm