'Chìa khóa' mở tương lai kinh tế biển Việt Nam

Ngày 5/11, Học viện Ngoại giao tổ chức Hội thảo Biển Đông quốc gia với chủ đề 'Hợp tác khoa học - công nghệ: Động lực thúc đẩy phát triển xanh, bền vững'.

Giám đốc Học viện Ngoại giao Nguyễn Hùng Sơn phát biểu khai mạc Hội thảo Biển Đông quốc gia với chủ đề “Hợp tác khoa học - công nghệ: Động lực thúc đẩy phát triển xanh, bền vững”, ngày 5/11. (Ảnh: Phương Thuận)

Giám đốc Học viện Ngoại giao Nguyễn Hùng Sơn phát biểu khai mạc Hội thảo Biển Đông quốc gia với chủ đề “Hợp tác khoa học - công nghệ: Động lực thúc đẩy phát triển xanh, bền vững”, ngày 5/11. (Ảnh: Phương Thuận)

Tham dự Hội thảo có Phó Chủ tịch ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng Trần Nam Hưng; Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Đức Toàn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường); Giám đốc Học viện Ngoại giao Nguyễn Hùng Sơn cùng đại diện đoàn ngoại giao, các chuyên gia, học giả, đại diện các tổ chức, doanh nghiệp, hiệp hội trong nước và quốc tế.

Phát biểu khai mạc, Giám đốc Học viện Ngoại giao Nguyễn Hùng Sơn nhấn mạnh, mục tiêu của Hội thảo là kết nối tri thức, chia sẻ kinh nghiệm phát triển biển giữa các quốc gia, qua đó thúc đẩy hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ, góp phần thực hiện các Nghị quyết của Trung ương về hội nhập quốc tế, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển kinh tế biển xanh, bền vững tại các địa phương ven biển.

Ông Nguyễn Hùng Sơn cho biết, Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng 3.260 km cùng hơn 3.000 đảo, quần đảo lớn nhỏ, là lợi thế tự nhiên quan trọng để phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Vì vậy, việc đẩy mạnh ứng dụng và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học - công nghệ nhằm bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế biển xanh, bền vững là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam.

Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo được xác định có vai trò then chốt giúp Việt Nam đạt các mục tiêu phát triển đến năm 2030 và 2045 theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết mang tính đột phá, như Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Trong lĩnh vực kinh tế biển, Nghị quyết số 36-NQ/TW đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống người dân ven biển.

Trong các năm qua, Việt Nam đã tập trung đầu tư khai thác tiềm năng và thế mạnh trong các ngành công nghiệp mũi nhọn liên quan tới biển, như thăm dò khai thác dầu khí ngoài khơi, nuôi trồng thủy hải sản ven bờ, vận tải hàng hải và logistics, dịch vụ bến cảng và kho vận, dịch vụ du lịch biển và phát triển năng lượng tái tạo. Ngoài ra, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, tỷ lệ đóng góp GRDP của 28 tỉnh thành phố ven biển đạt mức 49,8% của cả nước (số liệu năm 2022).

Ông Trần Nam Hưng, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: Phương Thuận)

Ông Trần Nam Hưng, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: Phương Thuận)

Ông Trần Nam Hưng, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng, cho biết sau khi sáp nhập, với quy mô, vị trí và tiềm lực mới, Đà Nẵng đã thực sự trở thành vùng động lực biển của miền Trung, là điểm kết nối chiến lược trên trục Biển Đông - Tây Nguyên - ASEAN; đồng thời là trung tâm tiếp nhận, lan tỏa tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo về biển.

Theo Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị, mục tiêu đến năm 2030, Đà Nẵng sẽ trở thành trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á; là trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, du lịch, thương mại, tài chính, logistics, công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ. Thành phố hướng tới xây dựng hình ảnh đô thị cảng biển quốc tế, cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên, phát triển theo hướng sinh thái, thông minh và đáng sống.

Để hiện thực hóa mục tiêu đó, Đà Nẵng tập trung phát triển bền vững các ngành kinh tế biển, kiểm soát khai thác tài nguyên trong giới hạn phục hồi của hệ sinh thái. Thành phố ưu tiên đầu tư hạ tầng và thương hiệu du lịch biển đẳng cấp quốc tế; xây dựng trung tâm kinh tế biển gắn với chuỗi cung ứng logistics; hiện đại hóa đội tàu vận tải, tham gia sâu vào chuỗi vận tải quốc tế. Bên cạnh đó, Đà Nẵng đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ trong khai thác, chế biến hải sản, phát triển năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời; khuyến khích các ngành dựa trên đa dạng sinh học biển như dược liệu và rong, tảo, cỏ biển.

Song song, thành phố chú trọng bảo vệ môi trường, phục hồi rạn san hô và thảm cỏ biển, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thiên tai. Đà Nẵng cũng tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư công nghệ cao, đẩy mạnh chuyển đổi số và xây dựng cơ sở dữ liệu về biển, đảo.

“Chúng tôi kêu gọi cộng đồng khoa học, các tập đoàn công nghệ toàn cầu và doanh nghiệp chiến lược cùng đồng hành, chia sẻ tri thức, nguồn lực và giải pháp để phát triển những ngành công nghiệp biển tầm quốc tế, xây dựng Đà Nẵng trở thành thành phố biển thông minh, trung tâm tăng trưởng xanh bền vững của Việt Nam và khu vực”, ông Trần Nam Hưng nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, kinh tế biển hiện là một trong những động lực tăng trưởng mới, góp phần đa dạng hóa nền kinh tế và hội nhập quốc tế. (Ảnh: Phương Thuận)

Ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, kinh tế biển hiện là một trong những động lực tăng trưởng mới, góp phần đa dạng hóa nền kinh tế và hội nhập quốc tế. (Ảnh: Phương Thuận)

Ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhấn mạnh rằng thế kỷ XXI được xem là “thế kỷ của đại dương”, khi các quốc gia ven biển đều coi trọng việc xây dựng và thực thi chiến lược phát triển biển bền vững, trong đó phát triển kinh tế biển trở thành trọng tâm. Với hơn 3.260 km bờ biển, hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, cùng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam sở hữu tiềm năng biển to lớn, có vai trò chiến lược đối với phát triển và an ninh quốc gia.

Theo ông Toàn, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đã xác định kinh tế biển là một trong những động lực tăng trưởng mới, góp phần đa dạng hóa nền kinh tế, thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ xanh và hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP. Các lĩnh vực như thủy sản, dầu khí, hàng hải và du lịch biển không chỉ mang lại nguồn thu lớn mà còn tạo hàng triệu việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và khẳng định vị thế Việt Nam là quốc gia hướng biển.

Tuy nhiên, đại dương đang chịu sức ép ngày càng lớn từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm, suy giảm đa dạng sinh học và căng thẳng địa chính trị. Trong bối cảnh đó, Việt Nam xác định quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là công cụ quan trọng, giúp điều phối liên ngành, liên vùng, cân bằng giữa khai thác và bảo tồn. Phương thức này, được thể chế hóa qua Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, lấy hệ sinh thái làm trung tâm, hướng tới phát triển bền vững và sử dụng hiệu quả tài nguyên.

Cục Biển và Hải đảo Việt Nam mong muốn tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút doanh nghiệp và cộng đồng địa phương tham gia vào quá trình quản lý, đồng thời tích hợp chính sách, công nghệ và truyền thông trong khung quản trị thống nhất. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn, đổi mới sáng tạo và nghiên cứu cơ chế tài chính đại dương để huy động nguồn lực cho bảo vệ môi trường và sinh kế ven biển. Theo ông Toàn, điều này thể hiện tinh thần Nghị quyết 36-NQ/TW: “Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và người dân Việt Nam”.

Các đại biểu tham dự Hội thảo. (Ảnh: Phương Thuận)

Các đại biểu tham dự Hội thảo. (Ảnh: Phương Thuận)

Trong khuôn khổ Hội thảo, các diễn giả đã tập trung trao đổi, thảo luận nhiều nội dung quan trọng liên quan đến phát triển khoa học - công nghệ và công nghiệp biển của Việt Nam.

Tại phiên thảo luận thứ nhất, các đại biểu làm rõ những nội dung cốt lõi của chiến lược biển Việt Nam, đồng thời đánh giá triển vọng triển khai trên thực tế, nhất là trong các lĩnh vực ứng dụng khoa học - công nghệ biển. Bên cạnh đó, Hội thảo nhấn mạnh vai trò của ngành Ngoại giao trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ biển, gắn liền với các mục tiêu phát triển bền vững.

Thêm vào đó, việc giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của các địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội và tổ chức nghề nghiệp Việt Nam trong tham gia hợp tác quốc tế về khoa học – công nghệ, phục vụ mục tiêu bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học biển được chú trọng. Các đại biểu phân tích kinh nghiệm quốc tế trong phát triển các ngành công nghiệp biển, từ đó xác định tiềm năng hợp tác của Việt Nam cũng như cơ hội tham gia của các cơ quan đại diện ngoại giao, viện nghiên cứu, chuyên gia và học giả nước ngoài trong thời gian tới.

Ở phiên thảo luận thứ hai, các đại biểu tập trung chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong phát triển khoa học - công nghệ biển và triển khai các ngành công nghiệp biển bền vững. Nội dung thảo luận bao gồm: ứng dụng khoa học - công nghệ trong bảo vệ đa dạng sinh học ở các vùng biển ngoài phạm vi tài phán quốc gia; quản lý sinh thái ven biển và phát triển du lịch biển bền vững; nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy hải sản theo hướng bền vững; nghiên cứu công nghệ chôn lấp carbon dưới đáy biển, mô hình hợp tác công-tư trong phục hồi hệ sinh thái biển cùng với việc ứng dụng công nghệ trong bảo vệ và khai thác hạ tầng biển thiết yếu.

Hội thảo tổng kết nhiều bài học kinh nghiệm quốc tế trong phát triển các ngành công nghiệp biển thành công, qua đó rút ra những gợi mở quan trọng cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và triển khai chính sách phát triển biển bền vững trong tương lai.

Xuân Sơn-Phạm Tiến

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/chia-khoa-mo-tuong-lai-kinh-te-bien-viet-nam-333390.html