Chiến dịch Tây Nguyên đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên mở Chiến dịch Tây Nguyên với mật danh 'Chiến dịch 275''. Chiến thắng Tây Nguyên là cơ sở để Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên.
Nghi binh lừa địch, tạo gọng kìm “trói địch lại mà diệt”
Chiến dịch Tây Nguyên-chiến dịch mở đầu cuộc tiến công chiến lược năm 1975 có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên. Cơ quan chiến dịch được hình thành trên cơ sở nòng cốt là 3 cơ quan của Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên.
Về nhiệm vụ giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, ban đầu Bộ Quốc phòng giao cho Mặt trận Tây Nguyên là đánh khi có thời cơ và trong điều kiện phát triển của chiến dịch, đến ngày 18-1-1975, Bộ chính thức giao nhiệm vụ này cho mặt trận. Phạm vi chiến dịch gồm 3 tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông và Gia Lai, trọng tâm là Đắk Lắk, trong đó Buôn Ma Thuột là mục tiêu chủ yếu phải giải phóng trong bước đầu chiến dịch.

Lãnh đạo Quân đoàn 3 (nay là Quân đoàn 34) kiểm tra, động viên bộ đội Trung đoàn 24, Sư đoàn 10 tham gia diễn tập chiến thuật vòng tổng hợp, tháng 10-2024. Ảnh: VIỆT DŨNG
Chấp hành mệnh lệnh của Bộ, căn cứ vào tình hình cụ thể và thế bố trí của địch trên chiến trường Tây Nguyên, Bộ tư lệnh Chiến dịch đề ra hai phương án đánh địch: Phương án đánh địch đã có phòng ngự dự phòng ở thị xã và phương án đánh địch không có phòng ngự dự phòng. Việc chỉ đạo tác chiến của chiến dịch đã buộc địch không đưa được quân về tăng cường cho thị xã, nên ngày 4-3-1975, Bộ tư lệnh Chiến dịch quyết định tiến công giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột theo phương án đánh địch không có phòng ngự dự phòng. Việc quyết định chuyển mục tiêu tiến công chủ yếu về Buôn Ma Thuột đã làm thay đổi cơ bản mọi kế hoạch chiến dịch đã chuẩn bị trước đó.
Bộ tư lệnh Chiến dịch đã thực hiện tổng động viên các lực lượng và binh khí kỹ thuật của cả Mặt trận Tây Nguyên cho nhiệm vụ giải phóng Buôn Ma Thuột. Cuối tháng 2-1975, nhiều đơn vị bộ binh, binh chủng, đơn vị bảo đảm đã có mặt ở Tây Nguyên theo sự điều động của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Đến ngày mở màn Chiến dịch Tây Nguyên, lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm: 5 sư đoàn bộ binh, 4 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn đặc công, 1 trung đoàn xe tăng, 2 trung đoàn pháo binh, 1 trung đoàn thông tin, 6 tiểu đoàn vận tải, một số đơn vị bảo đảm của Bộ, Mặt trận Tây Nguyên và LLVT địa phương các tỉnh trên địa bàn tác chiến của chiến dịch.
Cùng với tăng cường các đơn vị bộ binh, binh chủng, đơn vị bảo đảm, Bộ Tổng Tư lệnh còn bổ sung một khối lượng vật chất rất lớn cho Mặt trận Tây Nguyên. Bộ đội Trường Sơn và các lực lượng tăng cường đã thực hiện được 110% kế hoạch vận chuyển cho chiến dịch. Lượng vật chất dự trữ toàn mặt trận tính đến cuối tháng 2-1975 đạt 17.359 tấn, riêng chuẩn bị cho chiến dịch là 10.603 tấn, trong đó lương thực, thực phẩm đạt 114%... Đây là sự cố gắng lớn nhất của ngành hậu cần chiến lược và chiến dịch, đã tạo cho Mặt trận Tây Nguyên lượng dự trữ vật chất rất lớn, bảo đảm cho bộ đội tác chiến hiệp đồng binh chủng dài ngày.
Với phương châm và tư tưởng chỉ đạo tác chiến của chiến dịch là “mạnh bạo, chắc thắng, chủ động, cơ động linh hoạt, bí mật, bất ngờ”, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Chiến dịch đề ra phương án tác chiến là phải bố trí lực lượng hình thành thế trận gọng kìm “trói địch lại mà diệt”-một thế trận hoàn toàn chủ động để tiến công đánh địch chắc thắng, quyết thắng, đánh địch bằng mưu kế, đánh địch bằng thế và lực. Muốn vậy, trước hết ta phải tạo dựng bằng được không gian chiến dịch, một thế trận chia cắt, vây hãm, vừa vây hãm vừa tiến công đột phá, vừa bằng sức mạnh, vừa bằng mưu kế, bí mật, bất ngờ.
Để tạo nên thế trận kìm địch, chia cắt địch thì còn phải thực hiện một mưu kế khác, đó là kế nghi binh đánh lạc hướng địch, giành thế bất ngờ. Do vậy, mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch ở Tây Nguyên diễn ra bí mật, nhịp độ ngày một khẩn trương và quy mô ngày càng lớn. Để giữ bí mật công tác chuẩn bị chiến dịch và cơ động lực lượng vào cài thế trên các hướng, thực hiện thắng lợi mục tiêu của chiến dịch, ngay từ tháng 11-1974 đến cuối tháng 2-1975, một kế hoạch nghi binh tuyệt mật mang mật danh “Kế hoạch tác chiến B” được Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên triển khai thống nhất, chặt chẽ, liên tục trên diện rộng với nhiều lực lượng tham gia.
Kế hoạch nghi binh được xác định rõ trong cách đánh của chiến dịch mà Quân ủy Trung ương và Bộ tư lệnh Chiến dịch xác định, đó là: Sử dụng lực lượng tương đối lớn cỡ trung đoàn, sư đoàn để cắt các đường giao thông 14, 19, 21, tạo ra thế chia cắt địch về chiến lược, tách Tây Nguyên với đồng bằng ven biển, cô lập Buôn Ma Thuột với Pleiku và Pleiku với Kon Tum; đồng thời tích cực hoạt động nghi binh, giam chân địch, thu hút sự chú ý và lôi kéo lực lượng của chúng về phía Bắc Tây Nguyên, tạo điều kiện cho ta có thể giữ bí mật, bất ngờ ở phía sau cho đến khi nổ súng đánh thị xã Buôn Ma Thuột.
Thực hiện kế hoạch nghi binh lừa quân địch, cấp trên quyết định điều Sư đoàn 968 (thiếu Trung đoàn 39) đang đứng chân tại Nam Lào phải có mặt ở Tây Nguyên trước ngày 6-1-1975 để nhận nhiệm vụ. Khi Sư đoàn 968 đến Tây Nguyên, đồng chí Hoàng Minh Thảo thay mặt Bộ tư lệnh Chiến dịch đã giao nhiệm vụ cho Sư đoàn nhanh chóng thay thế Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 tại Gia Lai và Kon Tum để các sư đoàn này cơ động về hướng chính làm nhiệm vụ. Yêu cầu đặt ra là khi thay phiên, các đơn vị tuyệt đối giữ bí mật, không để địch nghi ngờ hoặc phát hiện việc thay quân của ta. Đến ngày 17-1-1975, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 di chuyển hết lực lượng về phía Nam Tây Nguyên mà địch vẫn không phát hiện ra, tưởng hai sư đoàn chủ lực của ta còn ém quân sát Pleiku và Kon Tum.
Từ tháng 9-1974, ta đã đưa Trung đoàn Công binh 7 kết hợp với dân công rầm rộ triển khai mở các trục đường ở Bắc Tây Nguyên để làm đường nghi binh. Những hoạt động ráo riết theo kế hoạch nghi binh rất hiệu quả, thu hút lớn lực lượng chủ lực địch về hướng Bắc Tây Nguyên, làm cho chúng luôn lúng túng, bị động đối phó trong thời gian khá dài. Những hoạt động nghi binh chiến dịch của ta đã thành công, ta có điều kiện và thời cơ tiến công địch trong thị xã Buôn Ma Thuột theo phương án địch không có phòng ngự dự phòng.
Sau khi các lực lượng tham gia Chiến dịch Tây Nguyên hoàn thành nhiệm vụ tập kết trên các khu vực quy định, đúng 6 giờ 30 phút ngày 10-3-1975, các cụm pháo chiến dịch của ta bắt đầu trút bão lửa xuống các mục tiêu trong thị xã Buôn Ma Thuột, làm tê liệt nhiều hành động chiến đấu của địch trong thị xã. Kết thúc giai đoạn pháo bắn chuẩn bị, bộ binh và xe tăng của ta chuyển sang tiến công. Theo phương án tác chiến: Trên hướng Đông Bắc, hướng Tây Bắc, hướng Tây Nam và hướng Nam, lực lượng ta đồng loạt tiến công vào các mục tiêu. Trong ngày 10-3, ta đã đánh chiếm được phần lớn thị xã Buôn Ma Thuột.
Đêm 10-3, bộ đội ta bám trụ, cài xen với địch trong thị xã. Sáng 11-3, ta tiếp tục tổ chức tiến công, đến 10 giờ đã chiếm được sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Bằng cách đánh mạnh bạo, khôn khéo, đến hết ngày 11-3, ta đánh chiếm hết các mục tiêu quan trọng như: Sư đoàn 23, tiểu khu, sân bay thị xã, khống chế được sân bay Hòa Bình, làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột. Đến ngày 17-3, các mục tiêu phụ cận đã bị đánh chiếm hoàn toàn, trận tiến công thị xã Buôn Ma Thuột kết thúc thắng lợi.
Buôn Ma Thuột bị mất, Sư đoàn 23 ngụy bị đánh tơi tả trên Đường 21, Sư đoàn 22 của địch bị tiêu diệt một bộ phận và bị bao vây ở Đông An Khê, phần lớn lực lượng biệt động quân bị tiêu hao và giam chân ở Bắc Tây Nguyên, các đường 19, 14, 21 vẫn bị cắt triệt; Nha Trang, Cam Ranh bị bỏ ngỏ, hy vọng tái chiếm Buôn Ma Thuột bị tiêu tan, khối chủ lực Quân đoàn 2, Quân khu 2 của ngụy bị vây chặt ở Pleiku, Kon Tum và có nguy cơ bị tiêu diệt. Trước tình hình nguy ngập đó, ngày 14-3, Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu quyết định rút toàn bộ lực lượng ở Pleiku và Kon Tum theo Đường 7 về giữ vùng đồng bằng duyên hải Trung Bộ để bảo toàn lực lượng.
Tiếp theo hai trận then chốt giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột và đập tan lực lượng phản kích của địch trên Đường 21, trận truy kích Cheo Reo-Củng Sơn là trận then chốt thứ ba của Chiến dịch Tây Nguyên. Đây cũng là trận truy đuổi địch lớn nhất trong lịch sử chiến tranh cách mạng Đông Dương, là trận đánh xuất sắc nhất, “ngoạn mục” nhất của Đại đoàn Đồng Bằng trên chiến trường rừng núi Tây Nguyên. Chỉ trong 8 ngày chiến đấu (từ ngày 17 đến 24-3-1975), ta đã diệt gọn toàn bộ tập đoàn quân địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên địch, trong đó có 14.729 tên lính chủ lực, thu 5.759 súng các loại, thu và phá 2.000 xe các loại, bắn rơi 6 máy bay. Trận đánh đã để lại những kinh nghiệm quý giá về nắm thời cơ, xây dựng quyết tâm và chỉ huy chiến đấu truy kích, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật giành thắng lợi lớn trong thời gian ngắn.
Phát huy truyền thống, xây dựng Quân đoàn 34 tinh, gọn, mạnh
Trước yêu cầu cấp bách của việc xây dựng các binh đoàn chiến lược, ngày 15-10-1973, Bộ Chính trị phê chuẩn đề nghị của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về việc thành lập các quân đoàn chủ lực. Quân đoàn 3 được thành lập theo Quyết định số 54/QĐ-QP ngày 26-3-1975 của Bộ Quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên. Tổ chức biên chế Quân đoàn trên cơ sở lực lượng bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên, gồm: 3 sư đoàn bộ binh (10, 316, 320A), 2 trung đoàn pháo binh (40 và 675), Trung đoàn Xe tăng 273, 3 trung đoàn phòng không (232, 234, 593), Trung đoàn Đặc công 198, Trung đoàn Công binh 7, Trung đoàn Thông tin 29 và một số đơn vị trực thuộc.
Sau khi thành lập, Quân đoàn 3 vinh dự được tham gia chiến dịch lịch sử mang tên Bác. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn được giao nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu của chiến dịch, cùng với các đơn vị bạn trực tiếp đột kích thẳng vào nội đô, đánh chiếm một số mục tiêu trọng yếu trong cơ quan đầu não của Mỹ-ngụy và tiêu diệt các lực lượng bảo vệ tuyến Tây Bắc Sài Gòn. Quân đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần cùng với các lực lượng giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày 30-4-1975, Quân đoàn 3 được giao nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, khắc phục hậu quả sau chiến tranh; phối hợp với các LLVT, cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương làm nhiệm vụ truy quét FULRO và các nhóm phản động; cơ động chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả; đồng thời tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Năm 1987, thực hiện chủ trương điều chỉnh thế bố trí chiến lược các binh đoàn chủ lực phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, Quân đoàn 3 được điều động trở lại địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới, nhưng toàn Quân đoàn đã nêu cao ý chí tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, phát huy truyền thống “Quyết thắng, sáng tạo, đoàn kết, thống nhất, nghiêm túc, tự lực”, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng giao trong mọi tình huống, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần xây dựng địa bàn chiến lược Tây Nguyên ngày càng phát triển bền vững, giàu đẹp và tiến bộ.
Quán triệt và thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của các cấp, đặc biệt là Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị, thực hiện nghị quyết của Quân ủy Trung ương về thành lập Quân đoàn 34, ngày 10-12-2024, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký ban hành Quyết định số 5989/QĐ-BQP về việc thành lập Quân đoàn 34 trên cơ sở sáp nhập Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4, với quy mô, tổ chức, lực lượng lớn hơn; chức năng, nhiệm vụ nặng nề hơn; được trang bị nhiều loại vũ khí, trang bị phương tiện mới, hiện đại hơn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Kế thừa và phát huy truyền thống của Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4, hơn nửa thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, thường xuyên, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cùng với sự thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của hai quân đoàn tích cực, chủ động vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, không ngừng phấn đấu vươn lên, lập nhiều chiến công xuất sắc.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, Quân đoàn 34 tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện toàn diện các nhiệm vụ trên các mặt công tác, luôn giữ vững, phát huy truyền thống và bản chất Bộ đội Cụ Hồ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần tô thắm truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Thiếu tướng NGUYỄN BÁ LỰC, Tư lệnh Quân đoàn 34
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Quốc phòng an ninh xem các tin, bài liên quan.